GS Nguyễn Đình Đức: Nhật Bản xậy dựng xã hội 5.0

 Nhật Bản xây dựng xã hội 5.0

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội

            Cả thế giới đang ở trong bôi cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng hiện nay, Nhật Bản đã nói tới và đề ra nhiệm vụ xây dựng Xã hội 5.0.

Vậy xã hội 5.0 của người Nhật là gì?

Khái niệm “Xã hội 5.0” được đề xuất trong Kế hoạch Khoa học Công nghệ lần thứ 5 của Chính phủ Nhật Bản (the 5th Science and Techonology Basic Plan) 2016-2020. Các Kế hoạch Khoa học Công nghệ của Nhật Bản được xây dựng 5 năm một lần, kể từ lần đầu tiên vào năm 1996, căn cứ theo Luật Cơ sở về Khoa học và Công nghệ ban hành năm 1995. Luật này ra đời trong bối cảnh nước Nhật có mong muốn mạnh mẽ đột phá khỏi con đường khoa học công nghệ từ trước đến nay do phương Tây dẫn đầu, tiến lên khám phá những lĩnh vực khoa học công nghệ chưa từng có ai đặt chân đến, để góp phần giải quyết những vấn đề toàn cầu, những vấn đề thách thức nhân loại. Căn cứ trên các Kế hoạch Khoa học Công nghệ, suốt 20 năm qua, chính phủ Nhật Bản đã có những chính sách đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển, cải tổ cơ chế tổ chức thực hiện nghiên cứu và phát triển, xây dựng và trang bị các cơ sở nghiên cứu hiện đại, mở rộng hoạt động trao đổi và hợp tác quốc tế …

Trong Kế hoạch Khoa học và Công nghệ lần thứ năm, ngay từ 2016, khái niệm Xã hội 5.0 được Nhật Bản định nghĩa là “một xã hội lấy con người là trung tâm; là xã hội cân bằng giữa phát triển về kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bằng hệ thống tích hợp cao giữa không gian ảo và không gian thực”.

           Tại sao Nhật Bản lại đề ra xã hội 5.0

Xuất phát từ những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, nhu cầu cao về sản xuất lương thực và các sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho sự gia tăng dân số trên toàn cầu, cùng với những vấn đề kinh tế và xã hội mà nước Nhật đang phải đối mặt như: sự cạnh tranh kinh tế trên toàn cầu, xã hội “siêu” già hóa với hơn 100,000 người trên 100 tuổi (trong tổng dân số 120 triệu người) với gánh nặng chăm sóc y tế ngày càng tăng, dân số trẻ sụt giảm khiến thiếu lao động đặc biệt là lao động trong những lĩnh vực có mức độ sáng tạo thấp …, Kế hoạch Khoa học Công nghệ lần thứ 5 của Nhật Bản đã đề xuất khái niệm Xã hội 5.0 và các định hướng, các chính sách về khoa học và công nghệ để tiến đến Xã hội 5.0, một mặt khẳng định vị thế của Nhật Bản trong quá trình cạnh tranh toàn cầu, mặt khác đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề chung của nhân loại và giải quyết những vấn đề riêng của nước Nhật, hướng đến một sự phát triển bền vững.

Xã hội 5.0 của Nhật bản gồm những nội dung gì?

Theo quan niệm của Nhật Bản, từ trước đến nay xã hội loài  ngườ đã trải qua:

“Xã hội 1.0” là Thời kỳ nguyên thủy săn bắn,

“Xã hội 2.0” là Xã hội nông nghiệp

“Xã hội 3.0”  là Xã hội công nghiệp, là thời kỳ cơ khí hóa với đầu máy hơi nước và việc sử dụng điện

“Xã hội 4.0” là Xã hội thông tin, trong đó giá trị gia tăng được tạo ra nhờ việc kết nối các tài sản phi vật chất qua mạng internet.

Với Xã hội 5.0, có bốn yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhất trí tuệ nhân tạo (AI), big data, tự động hóa (robot) và IoT (internet vạn vật). Trong Xã hội 5.0, một lượng dữ liệu vô cùng lớn được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau, thông qua IoT, từ các cảm biến, camera v.v. trong không gian thực được tích lũy vào “không gian đám mây” (có thể gọi là không gian ảo). Tại không gian ảo đó, trí tuệ nhân tạo với khả năng phân tích, dự đoán vượt cả trí tuệ của con người sẽ phân tích khối dữ liệu khổng lồ nói trên, và truyền kết quả phân tích trở lại cho không gian thực dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Trước đây, trong xã hội thông tin (Xã hội 4.0), dữ liệu được thu thập về sẽ do con người phân tích, còn trong Xã hội 5.0, con người, vạn vật và các hệ thống được kết nối với nhau tại không gian ảo, siêu thông minh. Có thể ví von một cách hình tượng cho dễ hiểu là không gian ảo có trí tuệ nhân tạo là bộ não, robot-tự động hóa là cơ bắp và IoT và các dữ liệu lớn được phân tích làm nên hệ thần kinh, và kết quả phân tích được kỳ vọng là những kết quả tối ưu, vượt quá cả khả năng phân tích của con người. Nếu trong Xã hội 4.0, người máy thực hiện, thao tác theo sự điều khiển của con người, thì trong Xã hội 5.0, sẽ có người máy siêu thông minh, biết cảm thụ và nhận thức, có thể đưa ra các quyết định thay cho con người.

Tác động và ảnh hưởng của Xã hội 5.0 sẽ như thế nào?

Trên đà định hướng phát triển đó, người Nhật đang chạy đua nước rút, chuẩn bị để Thế giới chứng kiến thế vận hội 2020 tại Nhật Bản ngỡ ngàng với những thành phố thông minh, giao thông thông minh và những sản phẩm mới, siêu thông minh.

Người ta cho rằng trong Xã hội 5.0, cuộc sống của con người sẽ tốt đẹp hơn. Xã hội con người sẽ giải quyết được các vấn đề như biến đổi khí hậu, ùn tắc giao thông, thiếu lương thực, xóa khoảng cách giàu nghèo. Con người sẽ được hưởng những sản phẩm, dịch vụ, tiện ích tốt hơn, với số lượng vừa đủ, tại thời điểm phù hợp nhất.

Cụ thể, trong lĩnh vực chăm sóc y tế, có thể hình dung người cao tuổi sẽ không cần vất vả đi khám tại các bệnh viện khác nhau do nhiều bệnh khác nhau, mà có thể được chẩn đoán từ “bác sĩ ảo” qua màn hình máy tính từ nhà, được phát thuốc đến tận nhà bằng các phương tiện bay, hoặc được chăm sóc y tế bằng các robot.

Trong lĩnh vực giao thông, các xe tự lái sẽ giúp người tham gia giao thông thư giãn và an toàn, việc giao nhận bằng các phương tiện bay tự hành cũng sẽ giúp giảm thiểu lượng giao thông trên đường espanolcialis.net.

Trong lĩnh vực kỹ thuật hạ tầng, toàn bộ hệ thống sẽ được các cảm biến, camera giám sát và đo, xây lắp sử dụng nhiều robot, qua đó thực hiện xây dựng với độ chính xác cao, có kế hoạch duy tu bảo dưỡng tối ưu và ít sử dụng nhân công.

Tuy nhiên, để đạt được những thành quả đáng mong đợi đó trong Xã hội 5.0, sẽ cần phải vượt qua những rào cản về cơ chế chính sách giữa các bộ ngành (và xa hơn, thâm chí sẽ là giữa các quốc gia) với nhau; vượt qua rào cản về hệ thống pháp lý để tạo ra hành lang pháp lý mới phù hợp hơn với những dịch vụ mới, công nghệ mới; vượt qua rào cản về công nghệ; rào cản về sự tham gia của mọi thành phần trong xã hội; và cả rào cản về nhận thức, về sự chấp nhận của con người đối với những hình thái sản phẩm và  dịch vụ mới.

Kết luận. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ và với việc xây dựng Xã hội 5.0, người Nhật đã có tầm nhìn vượt lên hiện tại, nhằm xây dựng một xã hội  thích ứng tốt nhất với những thành tựu của cuộc cách mạng này. Xã hội 5.0 chính là xã hội mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, siêu thông minh, nhưng phát triển một cách bền vững vì con người, cho con người. Cách tiếp cận Xã hội 5.0 đảo ngược cách tiếp cận truyền thống. Theo truyền thống, sự đổi mới được thúc đẩy bởi công nghệ, làm cho xã hội phát triển. Xã hội 4.0, số hóa là trung tâm. Với xã hội 5.0, số hóa là phương tiện, con người mới là đạo diễn chính, làm cho con người hạnh phúc và được hưởng nhiều tiện ích mới trong xã hội siêu thông minh. Xã hội 5.0 điều tiết và làm cân bằng sự phát triển của công nghệ, nền kinh tế số hóa và sự phát triển xã hội.Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ và Xã hội 5.0 chính là quan hệ sản xuất mới, phù hợp với những đổi thay phi thường đó. Đến lượt mình, với những định hướng như trên, chắc chắn Xã hội 5.0 sẽ lại thúc đẩy mạnh mẽ sự ra đời và phát triển của một kỷ nguyên mới, được định dạng bởi không gian ảo và người máy sẽ làm thay cho con người và sống cùng với con người. Phải chăng, đó sẽ chính là khởi đầu cho một cuộc cách mạng mới: các mạng công nghiệp 5.0 đang đến?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

GS Nguyễn Đình Đức: 3 thành tựu nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam

THÀNH TỰU NỔI BẬT CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM QUA 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 29/TW-2013 VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp chấn hưng đất nước.  Giáo dục đại học (bao gồm cả đào tạo đại học, sau đại học) là cấu thành vô cùng quan trọng của hệ thống giáo dục, bởi nói đến giáo dục đại học là nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao – chính là giá trị cốt lõi – là chìa khóa để đất nước chúng ta có thể nắm bắt được những thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại và những vận hội mới, đưa đất nước ta vượt qua thách thức, tiến lên phía trước, sánh vai với các nước năm châu.

Đúng 5 năm trước đây, trong Nghị Quyết 29/TW ngày 04-11-2013 của BCH Trung ương (sau đây gọi tắt là NQ29) đã nhận định “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp’’ và đã chỉ ra giáo dục đại học “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.

Sau 5 năm triển khai thực hiện NQ29, đã có nhiều hội nghị, hội thảo tổng kết và đánh giá toàn diện và đầy đủ ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, khái quát lại , tôi thấy về tổng thể, giáo dục đại học có một số thành tựu lớn, nổi bật như sau:

        Một là, giáo dục đại học Việt Nam đã hội nhập và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế

         Có thể thấy chưa bao giờ giáo dục của Việt Nam đổi mới nhanh và mạnh mẽ, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế như những năm qua. Minh chứng cho nhận định này có thể thấy qua việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học.

Các cơ sở giáo dục đại học của chúng ta không thể hội nhập với thế giới nếu không được kiểm định chất lượng. Người tốt nghiệp có tấm bằng của cơ sở giáo dục hoặc của chương trình đào tạo đã được kiểm định có cơ hội công ăn việc làm và hội nhập tốt hơn. Đến nay, hầu hết tất cả các cơ sở giáo dục đại học đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng. Tính đến tháng 5/2016, có 229/266 (chiếm 86,1%) cơ sở giáo dục đại học do Bộ GDĐT quản lý đã thành lập được đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng, một số trường còn lại giao một số cán bộ phụ trách hoạt động đảm bảo chất lượng. Cả nước hiện nay có 05 Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục đươc thành lập và được cấp phép hoạt động. Đã tổ chức 5 đợt tuyển chọn và cấp thẻ kiểm định viên, có 346 người đã được cấp thẻ kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Tính đến ngày 31/8/2018, có 218 cơ sở giáo dục đại học và 33 trường cao đẳng sư phạm hoàn thành tự đánh giá; 124 cơ sở giáo dục đại học và 03 trường cao đẳng sư phạm được đánh giá ngoài, trong đó 117 cơ sở giáo dục đại học và 03 trường cao đẳng sư phạm đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng; 10 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng; 06 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và Mạng lưới đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA); 107 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và công nhận.

Công tác kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam đã định hướng theo các tiêu chí chuẩn mực của khu vực  và thế giới. Trong những năm gần dây, hoạt động kiểm định đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là các cấp quản lý giáo dục, các nhà trường được tiếp cận với mô hình quản lý hiện đại, tiên tiến. Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài nhiều nhà trường đã thấy được điểm mạnh, điểm yếu và đã xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực và hiệu quả hơn. Các cơ sở giáo dục đã thay đổi cách nhìn nhận về công tác quản lý và chỉ đạo, tăng cường năng lực quản lý nhà trường và quản lý dạy, học. Kiểm định chất lượng giáo dục tạo động lực cho công tác đánh giá nói chung, góp phần quan trong thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục và hội nhập với thế giới.

Bên cạnh hoạt động kiểm định, xếp hạng đại học là hoạt động cũng được Bộ giáo dục Đào tạo và các trường đại học Việt Nam đặc biệt coi trọng trong những năm qua. Nếu kiểm định phản ánh chất lượng thì xếp hạng đại học nói lên đẳng cấp.

Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục đại học Việt Nam, vào năm 2018, 2 Đại học Quốc gia có tên trong danh sách xếp hạng 1000 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS; trên 10 cơ sở GDĐH của Việt Nam có tên trong các bảng xếp hạng nghiên cứu SCImago, thứ hạng cũng dần được cải thiện. Ngoài ra, còn có 3 cơ sở GDĐH được chứng nhận 3 sao theo QS-Stars. Có thể thấy những thành tựu về kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học là minh chứng cho sự thành công, sự chuyển mình, cho sự đổi mới toàn diện và hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam với quốc tế trong thời gian qua.

          Hai là, tạo được sự đột phá, chuyển biến về chất lượng. Công bố quốc tế, chất lượng đội ngũ giảng viên và chất lượng người học ở bậc đại học và sau đại học đã có những bước nhảy vọt, đột phá so với giai đoạn trước

Trong thời gian 5 năm qua, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế mới về đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, trong đó chuyển đổi hoàn toàn từ đào tạo niên chế sang tín chỉ và yêu cầu xác định chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo. Chất lượng đầu ra của người học về ngoại ngữ và chuyên môn đều yêu cầu cao hơn so với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ đến nay đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc đại học là B1; chuẩn đầu vào với thạc sĩ là B1 và B2 với NCS. Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo còn yêu cầu phải trang bị kiến thức về CNTT và các kỹ năng mềm cho người học. Đây là những chỉ đạo và định hướng đổi mới giáo dục đại học hết sức quan trọng, đúng đắn và kịp thời.

Mặt khác, trước đây, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu thường chỉ được chú trọng ở các đại học lớn. Sau khi có NQ29, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, hoạt động đào tạo gắn với nghiên cứu được Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm chỉ đạo triển khai ở tất cả các trường đại học. Các trường đại học đã chú trọng xây dựng các nhóm nghiên cứu (NNC) để tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Ngoài hai Đai học Quốc gia, nhiều trường đại học đã xác định mục tiêu phát triển thành các đại học nghiên cứu tiên tiến. Theo báo cáo khảo sát của Bộ giáo dục Đại học, tính đến hết năm 2017 trong các trường đại học có 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm nghiên cứu nhất là Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Đà Nẵng, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, ĐHQG Hà Nội, ĐH Tây Nguyên,..

Thành tích lớn nhất của 5 năm qua là chúng ta đã tạo được sự chuyển biến đột phá về chất lượng. Chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, GS, PGS,TS không yêu cầu bắt buộc có công bố quốc tế, thì nay, với quy chế mới về tiêu chuẩn chức danh, bắt buộc yêu cầu GS,  PGS và cả các  NCS khi bảo vệ luận án đều phải có công bố quốc tế.

Nếu như năm 2006, mới có anh Trần Hữu Nam, NCS ngành toán của ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN lần đầu tiên làm NCS trong nước đã công bố được 1 bài ISI trong quá trình làm luận án(và đã được đặc cách bảo vệ sớm luận án TS, thì nay 80% các NCS trong lĩnh vực KHTN- CN của ĐHQGHN, cũng như nhiều NCS của ĐH Bách Khoa Hài Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Duy Tân  và nhiều trường đại học khác khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI,….Cá biệt có những trường hợp đặc biệt xuất sắc như NCS Trần Quốc Quân, NCS Phạm Hồng Công – ngành Cơ học Kỹ thuật của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN, từ khi là sinh viên đến khi bảo vệ luận án TS chỉ có 3 năm (được chuyển tiếp NCS) và mỗi em đã có khoảng 20 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, còn hơn nhiều NCS được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài).

Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và các nhóm nghiên cứu, công bố quốc tế của Việt Nam đã đặc biệt tăng mạnh trong 3 năm gần đây. Năm 2013, trước khi có NQ 29, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2309 bài, thì theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập của ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.

Nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế đã trở thành tiêu chí bắt buộc của giảng viên đại học. Công văn việc làm, kiến thức chuyên môn song hành với ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho người học là kim chỉ nam cho hoạt động đào tạo trong các trường đại học hiện nay. Cho thấy giáo dục đại học Việt Nam đang có sự chuyển biến và đột phá về chất hết sức quan trọng, theo các yêu cầu và chuẩn trình độ quốc tế.

 Ba là, chăm lo đào tạo và bồi dưỡng nhân tài; có sự chuyển dịch mạnh mẽ và kịp thời cơ cấu ngành nghề, nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0.

              Một thành tựu nữa không thể không nhắc đến là đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Bên cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ giáo dục và Đào tạo còn chỉ đạo các trường đại học tích cực triển khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến, chất lượng cao để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Chương trình tài năng đào tạo các cử nhân, kỹ sư có năng khiếu trong lĩnh vực khoa học cơ bản (cử nhân tài năng) và kỹ thuật công nghệ (kỹ sư tài năng). Chương trình đào tạo tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, áp dụng cho các ngành khoa học tự nhiên-công nghệ, sử dụng toàn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và cấp kinh phí triển khai thực hiện. Đội ngũ giảng viên tham gia chương trình là của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài, nhằm phát triển quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu. Bên cạnh đó, với chương trình 911, 322, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ, ưu tú ở nước ngoài.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đang tạo ra những cơ hội cũng như thách thức với giáo dục đại học. Giáo dục đại học Việt Nam bước đầu đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề phù hợp. Theo số liệu tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ giáo dục và Đào tạo, tổng quy mô sinh viên (SV) ĐH là 1.767.879 sinh viên, giữ khá ổn định so với những năm trước; quy mô SV cao đẳng sư phạm giảm 14,3%, chỉ còn 47.800 SV. Phần lớn SV tập trung theo học các ngành thuộc Khối ngành V, III: Toán và thống kê; Máy tính và công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ thuật; Kỹ thuật; Sản xuất chế biến; Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thuỷ sản; Thú y và Khối ngành: kinh doanh quản lý, pháp luật. Tính từ đầu năm 2016 đến 31/7/2017, tổng số ngành mở mới ở trình độ ĐH là 184 ngành, tập trung chủ yếu vào các nhóm ngành Kỹ thuật, Công nghệ kỹ thuật, Máy tính và Công nghệ thông tin, Khoa học xã hội và hành vi, Kinh doanh quản lý, Pháp luật. Mới đây, Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã có công văn 5444/BGDĐT-GDĐH ngày 16/11/2017 ban hành cơ chế đặc thù về đào tạo CNTT, cho phép sinh viên các ngành khác được học thêm văn bằng 2, chính quy về CNTT. Một số ngành mới khác như an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, robotic, khoa học dữ liệu, công nghệ hàng không vũ trụ đã được mở ở ĐHQGHN; các ngành tự động hóa, CNTT, khoa học máy tính, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano,…được giảng dạy và đào tạo ở nhiều  trường đại học trong cả nước, cho thấy ngành giáo dục đại học của chúng ta đang đi đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 đang diễn ra khắp nơi cũng như trong tất cả các lĩnh vực trên thế giới.

           Tóm lại, trong 5 năm thực hiện NQ 29, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Bài viết này muốn tổng kết và nhấn mạnh đến 3 thành tựu nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam đã làm được trong 5 năm qua, đó là chúng ta đã hội nhập và theo chuẩn mực của quốc tế; đã có sự đột phá về chất lượng và có sự chuyển mình mạnh mẽ về chương trình đào tạo, cơ cấu nguồn nhân lực. Những thành tựu đổi mới đó tác động đến toàn bộ hoạt động của ngành giáo dục, và sâu xa hơn, đến toàn thể xã hội, chi phối và làm đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục của nước nhà. Thành quả lớn lao nhất là từ chính những đổi mới đó, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận và nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của đất nước  trong giai đoạn mới.

GS.TSKH Nguyễn Đình ĐứcĐại học Quốc gia Hà Nội

Chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức

Chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức: 11/10

Đại diện BGH Trường ĐHCN, các đồng  nghiệp, học trò chân thành chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN, Chủ nhiệm Bộ môn. GS là người  đã dày công gây dựng nhóm nghiên cứu, sáng lập Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, sáng lập Bộ môn (Khoa) Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông – người đã dìu dắt bao thế hệ học trò đi đến thành công.

Xin cảm ơn Thầy.  Các thế hệ học trò xin gửi tới người Thầy đáng kính lời tri ân, tấm lòng biết ơn sâu sắc nhất, và kính chúc Thầy luôn dồi dào sức khỏe, luôn thật nhiều niềm vui và hạnh phúc, cống hiến thật nhiều cho khoa học và cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.  Chúng em rất tự hào về Thầy.

 IMG_3373

 

GS Nguyễn Đình Đức tham gia Ủy ban quốc tế về FGM

Tháng 8/2018, Hiệp hội quốc tế về vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi đã tổ chức Congress tại Nhật Bản ((GS Akira Kawasaki, Tohoku University, Nhật Bản và GS Omer Van Der Biest, Katholieke Universiteit Leuven, Bỉ – là đồng Chủ tịch) đã kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội và nhất trí giới thiệu, phê chuẩn GS Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN đại diện cho các nhà khoa học của Việt Nam tham gia Ủy ban này.

Hiệp hội tập hợp tất cả các nhà khoa học trên toàn thế giới về vật liệu composite chức năng thông minh FGM. Ủy ban quốc tế có đại diện của 13 quốc gia, trong đó từ năm 2018 sẽ có đại diện của Việt Nam (Nghiên cứu và công bố quốc tế của GS Nguyễn Đình Đức và các nhà khoa học Việt Nam về FGM có uy tín và tiếng tăm trong cộng đồng khoa học quốc tế).

Sự kiện này mở ra cơ hội hợp tác, hội nhập quốc tế trên tầm cao mới cho các nhà khoa học Việt Nam.

DANH SÁCH THÀNH VIÊN ỦY BAN QUỐC TẾ VỀ FGMs:

1.[USA]

– Prof. Glaucio H. Paulino
Co-Chairman Department of Civil and Environmental
Engineering, Georgia Institute of Technology,
5142B Jesse W.Mason Building, 790 Atlantic Drive NW, Atlanta, GA30332

– Prof. Marek-Jerzy Pindera
Dept. of Civil Engineering School of Engineering and Applied Science
University of Virginia
Thornton Hall Charlottesville, Virginia
22904-4742

– Prof. Jeongho Kim University of Connecticut,
Civil & Environmental Eng.Dept.
261 Glenbrook Rd., Unit 3037
US-Storrs 06269

-Prof. Huming Yin Department of Civil Engineering and Engineering Mechanics, Columbia University
Address: 634 SW Mudd (Mail Code: 4709)
500 West 120th Street
New York, NY 10027

2.[GERMANY]
– Prof. Thorsten Gerdes University of Bayreuth,
Keylab Glastechnologie, Lehrstuhl Keramische Werkstoffe, 95440 Bayreuth, Germany

3.[FRANCE]
Prof. Dr. Jean-François Silvain Institut de Chimie de la Materiere Condensee de Bordeaux, ICMCB-CNRS,
87, Avenue du Docteur Albert Schweitzer, F-33608 PESSAC Cedex, France

4. [BELGIUM]
Prof. Omer Van Der Biest
Co-Chairman of IACFGM Dept. of Metallurgy and Materials Engineering
Katholieke Universiteit Leuven
Kasteelpark Arenberg 44
3001 Heverlee-Leuven

5. [FINLAND]
Prof. Michael M. Gasik
Aalto University Foundation, School of Chemical Technology (Aalto CHEM), Dept. Material Science & Engineering, P.O.Box 16100, FIN-00076 AALTO, Finland

6. [RUSSIA]
-Prof. Evgeny Levashov
Scientific-Educational Center of SHS,
Head of the Department “Powder Metallurgy and Functional Coatings”, National University of Science and Technology “Moscow Institute of Steel and Alloys”, Leninsky Prospect, 4, Moscow, RU-119049

-Dr. Vladimir Sanin Institute of Structural Macrokinetics and Materials Science (ISMAN)
Lab. SHS Melts and Cast Materials
Chernogolovka, Moscow reg., 142432 Russia

7. [CHINA]
-Prof. Lianmeng Zhang State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology
Wuhan 430070

-Prof. Qiang Shen State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology, 122 Luoshi Road,
Wuhan 430070

-Prof. Qingjie Zhang State Key Laboratory of Materials Synthesis
and Processing, Wuhan University of Technology,
Wuhan 430070

-Prof. Wei Pan Department of Materials Science and Engineering, Tsinghua University
Beijing, 100084 China

-Prof. Chang-Chun Ge University of Science and Technology Beijing, Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics
Xue Yuan Lu No.30, Beijing 100083,China

-Dr. Xiao-Na Ren Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics, School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing,
30 Xueyuan Road, Beijing 100083, China

-Prof. Jing-Feng Li
Department of Materials Science and Engineering,
Tsinghua University, Beijing, 100084, P. R. China

-Prof.Zhangjian Zhou School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing, Lab. of Special Ceramics & P/M, Beijing 100083, China

8. [TURKEY]
Assoc. Prof.
Serkan Dag
Middle East Technical University
Department of Mechanical Engineering, Room # B318, METU, Ankara 06531

9. [BRAZIL]
-Prof. Fernando A. Rochinha Federal University of Rio De Janeiro (UFRJ), Mechanical Engineering Department, Centro de Tecnologia, Bloco G, Sala 203/204,
Cidade Universitária – Ilha do Fundão
PO Box 68503
Rio de Janeiro, 21945-970

– Prof. Emilio C.N.Silva Department of Mechatronics and Mechanical Systems Engineering, University of Sao Paulo,
Av. Professor Mello Moraes, 2231, Sao Paulo,
SP, Brazil, 05508-900

– Prof. Luis Augusto Rocha UNESP – Universidade Estadual Paulista “Júlio de Mesquita Filho”
Faculdade de Ciências, Campus de Bauru (www.fc.unesp.br)
Departamento de Física
Av. Eng. Luiz Edmundo Carrijo Coube, 14-01
17033-360 – Bauru –
SP Brazil

10. [SLOVENIA]
Dr. Sasa Novak Jozef Stefan Institute, Department for Nanostructured Materials – K7, Jamova 39,
SI-1000 Ljubljana, Slovenia

11. [KOREA]
Prof. Hansang Kwon
Department of Materials System Engineering,
Engineering Building 7, Pukyong National University
365 Sinseon-ro, Nam-gu,Busan 608-739, South Korea

12. [VIETNAM]
Prof. Nguyen Dinh Duc
Vietnam National University, Hanoi
Advanced Materials and Structures Lab.,
144 Xuan Thuy Road, Cau Giay District, Hanoi, Vietnam

13. [JAPAN]
– Prof. Akira Kawasaki
Chairman & Secretary of IACFGMs
Department of Materials Processing,
Graduate School of Engineering,
Tohoku University,
6-6-02 Aza-Aoba, Aramaki, Aoba-ku, Sendai, 980-8579 Japan

– Prof. Emeritus Yoshinari Miyamoto Toyotanso, Co.
5-7-12 Takesima, Nisiyodogawa-ku, Osaka, 555-0011, Japan

-Dr. Akinaga Kumakawa
Japan Aerospace Technology Foundation, 2-1-40 Takamori, Izumi-ku, Sendai, 981-3203 Japan

-Dr. Yoshikazu Shinohara,
National Institute for Materials Science
1-2-1, Sengen, Tsukuba, Ibaraki 305-0047

-Prof. Takashi Goto Institute for Materials Research, Tohoku University, Katahira 2-1-1, Aoba, Sendai, Japan

-Prof. Yoshimi Watanabe Department of Physical Science and Engineering, Graduate School of Engineering, Nagoya Institute of Technology, Gokiso-cho, Showa-ku,
Nagoya 466-8555, Japan

-Prof. Kazuhiro Hasezaki
Tokushima University, 2-1 Minamijyousanjima,
Tokushima 770-8506, Japan

-Prof. Soshu Kirihara Joining and Welding Research Institute, Osaka University, Mihogaoka 1-11, Ibaraki,
Osaka 567-0047, Japan

Emeritus members :
-Prof. Emer. Wolfgang G.J. Bunk
Am Hagen 14, D-51503
Roesrath-Forsbach, Germany

-Prof. Emer. Fazil Erdogan
Me-Mech. Dept. Bldg. 19
Lehigh University
Bethlehem, PA 18015, USA

300 đại biểu tham gia Hội nghị quốc tế Tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS – TM 2018

 

Từ 07 đến 9/09/2018, Hội nghị quốc tế tính toán trong khoa học vật liệu (ACCMS – TM) năm 2018 đã được Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN tổ chức tại Hà Nội.
Tham dự hội nghị về phía ĐHQGHN có GS.TS. Nguyễn Hữu Đức – Phó Giám đốc, GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo, PGS.TS. Vũ Văn Tích – Trưởng ban Khoa học công nghệ. Trường ĐHCN có TS. Nguyễn Anh Thái – Phó Hiệu trưởng, cùng lãnh đạo các phòng ban trong trường.

Hội nghị có sự tham gia của 300 đại biểu (trong đó có 80 đại biểu là người nước ngoài) cùng 200 báo cáo khoa học của các nhà khoa học đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Mỹ, Đức, Pháp, Anh và Việt Nam.

ACCMS – TM 2018  diễn ra với 3 báo cáo toàn thể (Plenary speaker), 39 báo cáo mời (Invited speaker), 39 báo cáo miệng (Oral) và 115 báo cáo Poster với danh mục 474 tác giả và các đồng tác giả.

Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Hữu Đức phát biểu chào mừng tại phiên khai mạc ACCCMS – TM 2018

ACCMS là một hoạt động khoa học có qui mô và uy tín cao, được tổ chức luân phiên ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Malaysia,…và lần này vinh dự được tổ chức tại Trường ĐHCN, ĐHQGHN.

Chủ đề báo cáo không chỉ giới hạn trong mô hình hóa và mô phỏng đa tỷ lệ (Multi-scale modeling and simulations) (chiếm tỉ lệ 20%), mà còn mở rộng sang các vật liệu cấu trúc nano (Nanostructure materials, tỉ lệ 15%), các vật liệu sử dụng cho chuyển đổi và dự trữ năng lượng (Materials for energy storage and conversion, tỉ lệ, 15%), Advanced composite and functional-graded materials and structures 20%) và một số lĩnh vực khác với tỉ lệ nhỏ hơn. Chất lượng các báo cáo được đánh giá sơ bộ thông qua các abstract là khá cao, với các nghiên cứu mang tính thời sự và khả năng ứng dụng cao.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội nghị ACCMS TM 2018, Trưởng ban tổ chức cho biết về một số điểm mới: “Hội thảo đã xuất hiện những nghiên cứu mới liên quan đến mô phỏng và ứng dụng các vật liệu thông minh, có cơ lý tính biến đổi, không chỉ tính toán trong vật liệu mà cả trong tính toán cho kết cấu, nghiên cứu độ bền, ổn định, các ứng xử tĩnh và động lực học,…Các báo cáo của hội nghị sẽ được xem xét xuất bản trên các chuyên san đặc biệt của các tạp chí quốc tế ISI uy tín. Đặc biệt là sự có mặt của hơn 40 báo cáo mời của các giáo sư nổi tiếng trên thế giới. Điều này cho thấy sức thu hút và uy tín của hội nghị cũng như sự trưởng thành và uy tín của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực khoa học vật liệu với cộng đồng khoa học quốc tế”.

Khẳng định ý nghĩa của ACCMS lần này, Phó Giám đốc ĐHQGHN Nguyễn Hữu Đức chia sẻ, Hội nghị quốc tế này được tổ chức nhằm mục đích thúc đẩy trao đổi quốc tế về ý tưởng và những tiến bộ trong Khoa học vật liệu tính toán. Năm nay với chủ đề, “Vật liệu nano ứng dụng trong phát triển bền vững”, là chủ đề mang ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển và hội nhập của nền khoa học và công nghệ nước nhà. Hội nghị không chỉ là dịp để các nhà khoa học trong nước gặp gỡ, trao đổi và giao lưu với các nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực chuyên môn, mà qua đó còn góp phần thúc đẩy các hướng nghiên cứu mới, hiện đại ở Việt Nam.

Với tính cấp thiết của chủ đề thảo luận, cùng với định hướng tiên phong trong nghiên cứu, chuyển giao tri thức của ĐHQGHN, hy vọng hội nghị sẽ là nơi công bố, chia sẻ những nghiên cứu mới về vật liệu nano và những ứng dụng của nó trong phát triển bền vững, góp phần nâng cao uy tín của ĐHQGHN trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Hội nghị này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì đây là cơ hội hiếm có để các nhà khoa học Việt Nam có cơ hội được tiếp xúc, gặp gỡ và trao đổi với các nhà khoa học hàng đầu của thế giới, qua đó góp phần thúc đẩy các hướng nghiên cứu mới, hiện đại không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.

Nguyễn Thủy – VNU Media

ACCMS TM 2018 – Hội nghị quốc tế lớn do Bộ môn phối hợp tổ chức

HỘI NGHỊ QUỐC TẾ TÍNH TOÁN TRONG KHOA HỌC VẬT LIỆU ACCMS TM 2018 TẠI ĐHQGHN 07-09/9/2018

Trong không khí hân hoan của những ngày đầu năm học mới 2018-2019, ,  ĐHQGHN vui mừng chào đón 300 đại biểu với  200 báo cáo khoa học của các nhà khoa học đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Mỹ, Đức, Pháp, Anh và Việt Nam, với hơn 80 đại biểu là người nước ngoài, trong đó có  3 báo cáo toàn thể (Plenary speaker), 39 báo cáo mời (Invited speaker), 39 báo cáo miệng (Oral) và 115 báo cáo Poster.

Hội nghị ACCMS là hội nghị lớn, được tổ chức luôn phiên ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga,  Ấn Độ,  Malaysia,…và lần này vinh dự được tổ chức tại ĐHQGHN.

Khoa Vật Lý Kỹ thuật và Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN là 2 đơn vị phối hợp tổ chức Hội nghị này.

Hội nghị đăng ký đại biểu từ chiều 07.9.2018,

Khai mạc sáng 8g30 sáng ngày thứ bảy, 8.9.2018 tại tòa nhà Sunwa, ĐHQGHN

144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội,

Và diễn ra trong 2 ngày 08 và 09 tháng 9  năm 2018.

Thông tin chi tiết về Hội nghị: http://accms2018.uet.vnu.edu.vn/

Chủ đề báo cáo không chỉ giới hạn trong mô hình hóa và mô phỏng đa tỷ lệ (Multi-scale modeling and simulations) (chiếm tỉ lệ 20%), mà còn mở rộng sang các vật liệu cấu trúc nano (Nanostructure materials, tỉ lệ 15%), các vật liệu sử dụng cho chuyển đổi và dự trữ năng lượng (Materials for energy storage and conversion, tỉ lệ, 15%), Advanced composite and functional-graded materials and structures 20%) và một số lĩnh vực khác với tỉ lệ nhỏ hơn. Chất lượng các báo cáo được đánh giá sơ bộ thông qua các abstract là khá cao, với các nghiên cứu mang tính thời sự và khả năng ứng dụng cao.

Điểm mới của hội nghị lần này là đã xuất hiện những nghiên cứu mới liên quan đến mô phỏng và ứng dụng các vật liệu thông minh, có cơ lý tính biến đổi, không chỉ tính toán trong vật liệu mả cả trong tính toán cho kết cấu, nghiên cứu độ bền, ổn định, các ứng xử tĩnh và động lực học,…Các báo cáo của hội nghị sẽ được xem xét xuất bản trên các chuyên san đặc biệt của các tạp chí quốc tế ISI uy tín. Đặc biệt là sự có mặt của hơn 40 báo cáo mời của các giáo sư nổi tiếng trên thế giới. Điều này cho thấy sức thu hút và uy tín của hội nghị cũng như uy tín của các nhà khoa học Việt Nam với cộng đồng khoa học quốc tế.

Hội nghị này đặc biệt có ý nghĩa với Việt Nam. Các nhà khoa học của Việt Nam có cơ hội hiếm có để tiếp xúc, gặp gỡ và trao đổi với các nhà khoa học hàng đầu của thế giới. Qua đó góp phần thúc đẩy các hướng nghiên cứu mới, hiện đại không chỉ ở Việt Nam, mà còn trên thế giới.

Thay mặt Ban tổ chức Hội nghị và các nhà khoa học Việt Nam, tôi xin chân thành cảm ơn GS Kawazoe và cộng đồng quốc tế đã dành vinh dự tổ chức hội nghị này cho Việt Nam, cho ĐHQGHN. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ, giúp đỡ của lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ, Lãnh đạo ĐHQGHN, Quỹ Phát triển KHCN quốc gia NAFOSTED, Bộ KHCN; Quỹ Nghiên cứu Châu Á của ĐHQGHN; Cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của ĐH Nguyễn Tất Thành, ĐH Việt Nhật, và đặc biệt cảm ơn sự tích cực tham gia và hưởng ứng của 300 nhà khoa học trên toàn thế giới.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy/cô, các nhà khoa học trong Ban Tổ chức và Ban thư ký đã vất vả trong cả năm qua chuẩn bị tích cực và chu đáo cho Hội nghị này; xin cảm ơn Ban Quản lý tòa nhà Sunwa của Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN đã ủng hộ và hỗ trợ cao nhất, cảm ơn các bạn sinh viên – tình nguyện viên của Trường ĐH Công nghệ đã nhiệt tình tham gia và sẵn sàng hỗ trợ Ban Tổ chức.

Chúc hội nghị thành công tốt đẹp. Chúc các quý vị đại biểu sẽ có những ngày thật vui và đầy ý nghĩa tại Hà Nội.

Trân trọng thông báo và kính mời quý thầy/cô, các bạn đồng nghiệp, các em NCS biết, tham gia Hội nghị.

Trưởng Ban Tổ chức Hội nghị

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

 

 

GS Nguyễn Đình Đức: Người Thầy của nhiều thế hệ học trò vượt khó, xuất sắc

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite, có hàng trăm bài báo trên tạp chí quốc tế ISI. Ông từng là giáo sư thỉnh giảng của nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới. Ông đã lan tỏa kiến thức, niềm đam mê khoa học ấy đến với bao thế hệ học trò.

 Quả ngọt từ những hạt nhân

Ngay từ khi về nước năm 2002, GS Nguyễn Đình Đức đã có nhóm nghiên cứu riêng. GS Nguyễn Đình Đức cho biết, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của nhóm nghiên cứu của ông là các lĩnh vực: composite, vật liệu chức năng FGM và vật liệu nano. Nhóm đang tiếp cận các hướng nghiên cứu hiện đại của cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực Cơ học kỹ thuật, kết hợp với trí tuệ nhân tạo, tối ưu hóa, tự động hóa và deep learning.

Ban đầu nhóm nghiên cứu chỉ có tôi và một vài học trò. Một mặt tôi giảng dạy kiến thức cho các em, mặt khác tôi động viên tinh thần, quan tâm tới đời sống của mỗi em để các em yên tâm tiếp cận môi trường nghiên cứu khoa học vốn cần nhiều thử thách về lòng kiên trì. Bên cạnh việc truyền tải tri thức còn là sự miệt mài và đồng hành cùng với các em trong những điều kiện hết sức thiếu thốn về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, có những lúc tưởng chừng không vượt qua nổi, nhưng chúng tôi vẫn luôn động viên nhau, người thầy thì định hướng, dìu dắt; học trò có sức trẻ thì miệt mài. Có nhiều đêm 1- 2 giờ sáng thầy trò vẫn còn trao đổi, thảo luận về đề tài chưa ngã ngũ”

GS Nguyễn Đình Đức nhớ lại.

Các học trò say sưa nghiên cứu khoa học dưới sự dìu dắt tận tình của GS Nguyễn Đình Đức. Ảnh: NVCC

Không phụ những nỗ lực bền bỉ và vượt lên hoàn cảnh ấy, các kết quả nghiên cứu của thầy và trò GS Nguyễn Đình Đức liên tục được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín với hàng trăm bài báo. Theo giới chuyên môn, con số công bố quốc tế này còn nhiều và xuất sắc hơn cả nghiên cứu sinh được du học và đào tạo ở nước ngoài. Học trò đến với GS Nguyễn Đình Đức ngày một nhiều hơn, tiếp cận với các hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới và có tiếng trong giới nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước.

Điều đáng nói, điểm tên những học trò thành danh của GS Nguyễn Đình Đức, đa số các em đều ở tỉnh xa, xuất thân từ những gia đình nghèo, học lực năm đầu tiên của nhiều em chỉ ở mức khá, nhưng được thầy dìu dắt, tận tâm chỉ bảo, các em đã vươn lên, tài năng được thắp sáng. Đó là các em như Hoàng Văn Tùng quê ở Ninh Bình, từ nhỏ chỉ sống với mẹ và gia đình thuộc diện khó khăn nhất xã; Trần Quốc Quân, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh – bố ốm đau bệnh tật, mẹ làm nông nghiệp, nhiều lúc tưởng phải bỏ cuộc nghiên cứu khoa học nửa chừng; Phạm Hồng Công, mồ côi bố từ bé. Tôi nhìn thấy ở các em hoài bão vươn tới những trí thức mới, niềm khao khát học tập và sự kiên trì, bền bỉ. Họ đều trở thành những người thành danh trong giới nghiên cứu khoa học trẻ.

TS Trần Quốc Quân (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội)- chàng trai 9X có nhiều bài báo quốc tế được công bố trên tạp chí ISI- chia sẻ: “Những ngày đầu bước chân vào con đường nghiên cứu khoa học còn gặp rất nhiều khó khăn, có nhiều lúc tưởng chừng bế tắc khiến tôi nản chí và muốn bỏ cuộc. Chính thầy là người đã động viên, giúp đỡ để tôi có thể có thêm động lực vượt qua tất cả để đạt được những kết quả ngày hôm nay. Thời gian khó khăn nhất của tôi là lúc chuẩn bị ra trường, trước nhiều lựa chọn cho tương lai của mình, tôi rất phân vân và trăn trở. Khi đến chia sẻ với thầy và xin ý kiến tôi đã nhận được những góp ý chân thành và đưa ra quyết định chính xác nhất. Đến giờ tôi vẫn luôn biết ơn thầy vì điều đó”.

Còn PGS TS Nguyễn Việt Hà, Hiệu trưởng ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội nhận định: “Tôi nhận thấy sự gắn bó gần gũi giữa thầy và các học trò, giữa nghiên cứu sinh khóa trước với các bạn khóa sau, cùng hỗ trợ nhau trong nghiên cứu và chia sẻ cả các vấn đề trong cuộc sống của nhóm nghiên cứu GS Nguyễn Đình Đức. Ngoài sự đam mê khoa học và yêu cầu khắt khe về công việc, GS Đức còn đặc biệt ở sự tận tình, bên cạnh vai trò người thầy thì như một người anh cả, một phụ huynh để chăm lo cho toàn nhóm nghiên cứu. Có lẽ đây là một điểm rất đáng trân trọng ở GS Đức. Nhờ đó mà nhóm nghiên cứu duy trì ổn định, tạo ra một cộng đồng giúp đỡ nhau, động viên nhau bền bỉ trong nghiên cứu và giảng dạy”.

Đến phát triển phòng thí nghiệm tầm quốc tế

Từ một nhóm nghiên cứu của mình, GS Nguyễn Đình Đức đã thành lập phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội). Đây là sự kết hợp giữa hai mô hình: Tổ bộ môn (đào tạo đầy đủ các bậc từ kỹ sư, thạc sĩ đến tiến sĩ) và mô hình phòng thí nghiệm (triển khai các nghiên cứu khoa học với các thiết bị hiện đại), thu hút hàng chục học viên cao học và nghiên cứu sinh từ khắp mọi miền của đất nước và cả ở nước ngoài đến trao đổi, sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu và học tập.

GS Nguyễn Đình Đức được mời trình bày báo cáo tại phiên toàn thể của Hội nghị quốc tế – tổ chức tại Hàn Quốc, 2017. Ảnh: NVCC

Đánh giá về sự phát triển của Phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu tiên tiến (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội, PGS TS Nguyễn Việt Hà, Hiệu trưởng ĐH Công nghệ cho biết: Phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu tiên tiến (PTN) triển khai các hướng nghiên cứu hiện đại, có tính liên ngành giữa cơ học, khoa học vật liệu và môi trường và các lĩnh vực khác, bắt nhịp với xu hướng hiện đại và liên ngành của công nghiệp 4.0. Kết quả nghiên cứu của Phòng thí nghiệm đã công bố trên nhiều tạp chí quốc tế có uy tín, có chỉ số trích dẫn cao. Đồng thời đón tiếp nhiều chuyên gia, nhà khoa học có uy tín của nước ngoài đến trao đổi và hợp tác, phối hợp tổ chức nhiều hội thảo quốc tế cũng như có hợp tác chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp để đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn. Năm 2016, Phòng thí nghiệm đã được Cục sở sữu trí tuệ cấp Bằng Giải pháp hữu ích.

“Những kết quả của PTN đạt được có vai trò dẫn dắt rất quan trọng của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức. GS Nguyễn Đình Đức là một trong những nhà khoa học đầu ngành, vừa có chuyên môn chuyên sâu, vừa tâm huyết, đồng thời có các mối quan hệ hợp tác hiệu quả để xây dựng nhóm nghiên cứu và phát triển Phòng thí nghiệm. Sự thành công của PTN vừa là điểm sáng về nghiên cứu vừa là động lực thúc đẩy và có tác động tích cực đến hoạt động nghiên cứu chung của Trường Đại học Công nghệ”, PGS TS Nguyễn Việt Hà chia sẻ.

Những nỗ lực không ngừng nghỉ của GS Nguyễn Đình Đức trong nghiên cứu, ứng dụng cũng như trong đào tạo nhân tài cho thấy vai trò quan trọng của việc gắn kết đào tạo với nghiên cứu và hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để giải quyết các vấn đề thực tiễn của Việt Nam và vươn tầm ra thế giới. Những trí thức trẻ được đào tạo bài bản và trưởng thành trong các phòng thí nghiệm “made in Vietnam” 100% với tầm vóc và kết quả nghiên cứu như vậy sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Những phòng thí nghiệm và nhóm nghiên cứu như của GS Nguyễn Đình Đức và các học trò – thành tài vươn lên từ khó khăn, bằng nội lực chính là những tấm gương, điểm sáng tiêu biểu cho thành công của giáo dục đại học Việt Nam.

Lê Vân/Báo Tin tức

Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ chuyên ngành Cơ kỹ thuật của nghiên cứu sinh Trần Quốc Quân

    Sáng ngày 17/04, tại Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội đã diễn ra Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ chuyên ngành Cơ kỹ thuật của nghiên cứu sinh Trần Quốc Quân (công tác tại Khoa Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa, Trường ĐHCN) với đề tài “Phân tích ổn định tĩnh và đáp ứng động lực phi tuyến của vỏ thoải hai độ cong FGM trên nền đàn hồi”. Luận án được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức over the counter viagra in canada.

     Tham dự lễ bảo vệ có PGS.TS. Chử Đức Trình – Phó Hiệu trưởng Nhà trường cùng các học viên và nghiên cứu sinh nhóm nghiên cứu Vật liệu và kết cấu tiên tiến.

Hội đồng cấp ĐHQG chấm luận án tiến sĩ gồm GS.TS. Trần Ích Thịnh –Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng; TS. Lã Đức Việt – Viện Cơ học (Viện HL KH&CN Việt Nam), Thư ký Hội đồng; Các phản biện gồm PGS.TS. Đào Như Mai – Viện Cơ học (Viện HL KH&CN Việt Nam); PGS.TS. Phạm Tiến Đạt – Học viện kỹ thuật quân sự, PGS.TS. Phạm Hoàng Anh – Trường Đại học Xây dựng; Các ủy viên gồm PGS.TS. Lương Xuân Bính – Trường Đại học Giao thông vận tải Hà Nội; TS. Đinh Khắc Minh – Viện Công nghệ tàu thủy Việt Nam.

NCS Trần Quốc Quân trình bày luận án trước hội đồng

Tại lễ bảo vệ, NCS Trần Quốc Quân nêu lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu, cụ thể vỏ hai độ cong là kết cấu được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp hàng không, công nghiệp tàu thủy,vỏ hai độ cong là kết cấu được sử dụng rộng nhưng vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về ổn định của vỏ hai độ cong đặc biệt khi kết cấu này được làm từ vật liệu FGM. Nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp giải tích, lý thuyết vỏ cổ điển nhất và lý thuyết san đều tác dụng gân của Lekhnitsky.

Luận án đã đề xuất công thức tính sự thay đổi các tham số hình học của gân gia cường theo nhiệt độ cũng như xây dựng công thức tổng quát để tính các thành phần lực và mô men của kết cấu có gân gia cường; thiết lập các phương trình cơ bản của bài toán nghiên cứu ổn định tĩnh và động lực phi tuyến của vỏ thoải hai độ cong FGM; xây dựng các phương trình cơ bản để giải quyết bài toán động lực phi tuyến và dao động của vỏ hai độ cong FGM.

Đại diện hội đồng, GS.TS. Trần Ích Thịnh thông báo kết luận hội đồng về luận án của nghiên cứu sinh

Luận án đã công bố 07 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI.

Phó Hiệu trưởng Chử Đức Trình (bên trái ảnh) tặng hoa chúc mừng NCS

Phát biểu tại lễ bảo vệ, PGS.TS. Chử Đức Trình chúc mừng NCS Trần Quốc Quân bảo vệ thành công và GS.TS. Nguyễn Đình Đức đã có thêm TS trong nhóm nghiên cứu. PGS khẳng định NCS Trần Quốc Quân là NCS đầu tiên Nhà trường thực hiện Quyết định số 4555 do Giám đốc ĐHQGHN ban hành ngày 24/11/2017 về Quy chế đào tạo tiến sĩ tại ĐHQGHN. Theo đó, NCS Trần Quốc Quân được đặc cách bỏ qua quy trình phản biện độc lập và thực hiện thẳng quy trình thành lập hội đồng đánh giá luận án, vì NCS đã có tối thiểu 03 bài báo trên các tạp chí ISI với tổng chỉ số IF từ 3.0 trở lên và kết quả công bố phù hợp với đề tài nghiên cứu của luận án.

Kết thúc buổi chấm luận án tiến sĩ của NCS Trần Quốc Quân, Hội đồng đã kết luận: Luận án của NCS Trần Quốc Quân đã đáp ứng được các yêu cầu của một luận án Tiến sĩ chuyên ngành Cơ kỹ thuật. 7/7 thành viên của hội đồng đều nhất trí đánh giá luận án xuất sắc. Đề nghị Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét cấp bằng Tiến sĩ cho NCS Trần Quốc Quân.

Mặc dù được đào tạo 100% trong nước, made in Việt Nam, nhưng NCS Trần Quốc Quân có công bố quốc tế còn hơn NCS được đào tạo 100% ở nước ngoài, Anh Trần Quốc Quân cũng vinh dự được nhận giải thưởng Nguyễn Văn Đạo, giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học Việt Nam năm 2016: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nguong-mo-chang-trai-9x-co-14-bai-bao-tren-tap-chi-quoc-te-isi-20160807072413214.htm

NCS Trần Quốc Quân gửi lời cảm ơn đến GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức (bên trái ảnh)

Tập thể hội đồng và cán bộ hướng dẫn chụp ảnh lưu niệm với NCS Trần Quốc Quân

Buổi bảo vệ luận án kết thúc thành công và NCS Trần Quốc Quân đã tự tin bảo vệ tốt luận án của mình với sự chúc mừng của tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học, các nhà khoa học, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.

Tuyết Nga (UET-News)

Thành lập Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông

Trường Đại học Công nghệ thành lập Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông

Ngày 28/3/2018, Hiệu trưởng Nguyễn Việt Hà đã ký quyết định số 252/QĐ-ĐHCN về việc thành lập Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông trực thuộc Trường Đại học Công nghệ trên cơ sở Phòng thí nghiệm Vật liệu linh kiện và kết cấu tiên tiến trực thuộc Khoa Cơ học kỹ thuật và tự động hóa.Continue reading