CHÂN DUNG NHÀ KHOA HỌC ĐƯỢC XẾP HẠNG ẢNH HƯỞNG QUỐC TẾ

Mới đây, 22 nhà khoa học người Việt đã lọt top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2020 theo công bố của tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ. Đứng đầu trong danh sách này là Giáo sư Nguyễn Đình Đức, hiện công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

GS.TSKH Nguyễn Hữu Đức là chuyên gia về Cơ học, vật liệu và kết cấu tiên tiến, hiện là Trưởng Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông; Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam và là Phó Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành Cơ học của Việt Nam. Giáo sư đã công bố hơn 250 bài báo, báo cáo, công trình khoa học, trong đó có hơn 136 bài trên các tạp chí quốc tế ISI, ngoài ra, ông còn là tác giả của 1 bằng phát minh, 1 bằng sáng chế trong lĩnh vực vật liệu mới.

Phóng sự của Truyền Hình Thông Tấn

https://vnews.gov.vn/video/nha-khoa-hoc-viet-vao-top-xep-hang-co-tam-anh-huong-nhat-the-gioi-2020-196807.htm

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Nhà khoa học Việt vào top xếp hạng ảnh hưởng nhất thế giới 2020

Mới đây, Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2020. Trong công bố này có 22 nhà khoa học Việt Nam.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam là GS. Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN) – xếp hạng 5798 thế giới; GS. Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM) – xếp hạng 6996 và PGS. Lê Hoàng Sơn (ĐHQGHN) – xếp hạng 9261 thế giới.

Đây cũng là 3 người lọt vào top 100.000 nhà khoa học xuất sắc nhất của thế giới 2019. Ngoài 3 nhà khoa học tiêu biểu trên, danh sách còn có 19 nhà khoa học khác. Những kết quả đáng tự hào này khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế

Theo VTC

3 nhà khoa học Việt vào top xếp hạng có tầm ảnh hưởng nhất thế giới 2020

Ngày 08/11/2020, Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố danh sách 100,000 nhà khoa học hàng đầu trên thế giới có ảnh hưởng lớn nhất năm 2020.

3 nhà khoa học Việt vào top xếp hạng có tầm ảnh hưởng nhất thế giới 2020 - 1

3 nhà khoa học xuất sắc Việt Nam vào top bảng xếp hạng các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng thế giới năm 2020

Tác giả của công bố này là nhóm Metrics của Jeroen Baas và các cộng sự. Theo đó, nhóm tác giả đã dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ 1960 đến 2019 trong 7 triệu nhà khoa học và lọc ra top 100.000 người có ảnh hưởng nhất.

Tiếp theo kết quả nghiên cứu của năm trước, Tạp chí PLoS Biology đã cập nhật dữ liệu tới hết năm 2019 và công bố xếp hạng thông qua nghiên cứu “Updated science-wide author databases of standardized citation indicators” của Jeroen Baas và cộng sự.

Nghiên cứu không có sự thay đổi trong công cụ đo lường khi nhóm nghiên cứu vẫn xây dựng cơ sở dữ liệu của 100.000 nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất (từ nguồn dữ liệu của Scopus) và xếp hạng của họ dựa vào sáu chỉ số về trích dẫn: tổng số trích dẫn; chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index; số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất (single author); số trích dẫn cho các bài báo là tác giả duy nhất hoặc tác giả đầu tiên (first author) và số trích dẫn cho các bài báo là tác giả duy nhất, đầu tiên hoặc cuối cùng (last author).

Cùng với đó, các nhà khoa học được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Trong công bố của năm nay, đã có 22 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2020.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam là GS. Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN) – xếp hạng 5798 thế giới; GS. Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM) – xếp hạng 6996 và PGS. Lê Hoàng Sơn (ĐHQGHN) – xếp hạng 9261 thế giới.

Đây cũng là 3 người lọt vào top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất của thế giới 2019.

Tiếp đến trong danh sách này là Bùi Diệu Tiên (ĐH Tôn Đức Thắng) -13.899, Hoàng Anh Tuấn (ĐH Giao thông TP Hồ Chí Minh) -16.694, Trần Phan Lam Sơn (ĐH Duy Tân) -22.075, Phạm Thái Bình (ĐH Duy Tân) -23.198, Trần Hải Nguyên (ĐH Duy Tân)-25.844, Phạm Viết Thanh (ĐH Tôn Đức Thắng) – 44.947, Nguyễn Thời Trung (ĐH Tôn Đức Thắng) -49.295,

Hoàng Đức Nhật (ĐH Duy Tân)- 50.345, Nguyễn Trung Kiên (ĐH Xây Dựng) -51.072, Nguyễn Thị Kim Oanh (ĐH Tôn Đức Thắng) – 62.494, Thái Hoàng Chiến (ĐH Tôn Đức Thắng) – 64.983, Võ Xuân Vinh (ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh) – 67.902;  Trần Ngọc Hân (ĐH Duy Tân)-73.924, Đinh Quang Hải (ĐH Tôn Đức Thắng) -79.737, Nguyễn Văn Hiếu (ĐH Phenikaa) – 82.061, Phạm Văn Hùng (ĐH Quốc tế, ĐHQG Hồ Chí Minh) – 85.932, Trần Đình Phong (ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội) 90.842 và Phan Thanh Sơn Nam (ĐH Công nghệ TP Hồ Chí Minh) – 92.886…

Đặc biệt, trong năm nay, có 2 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc cơ hữu trong nước  đã lọt vào bảng xếp hạng danh giá nhất – 100.000 nhà khoa học được xếp hạng ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời là GS Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM)  và GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN).

Những kết quả đáng tự hào này khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học của Việt Nam trong những năm gần đây.

Hồng Hạnh – Dân trí

TS trẻ được Forbes Việt Nam vinh danh trưởng thành từ Nhóm nghiên cứu mạnh của GS Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

Ngày 03/02/2020, Tạp chí Forbes Việt Nam công bố danh sách 30 gương mặt trẻ dưới 30 tuổi nổi bật nhất của Việt Nam năm 2020.

Trong danh sách này, có TS Trần Quốc Quân – trưởng thành từ Nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) – đã được vinh danh và ghi nhận với những thành tích nổi bật trong lĩnh vực giáo dục – khoa học tại Việt Nam.

Đây là lần thứ tư Forbes Việt Nam thực hiện danh sách tôn vinh những gương mặt trẻ có ảnh hưởng tích cực trong 6 lĩnh vực Kinh doanh và Startup, Hoạt động xã hội và Doanh nghiệp xã hội, Nghệ thuật – sáng tạo, Giải trí, Thể thao và Giáo dục – Khoa học.

Năm 2020, bên cạnh những doanh nhân trẻ, những nhà sáng lập các công ty khởi nghiệp đang có những thành công đáng chú ý, còn có các cá nhân xuất sắc trong các lĩnh vực nghệ thuật, giải trí, sáng tạo, thể thao.

TS. Trần Quốc Quân – cựu sinh viên, giảng viên Trường ĐH Công nghệ – học trò của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được Tạp chí đánh giá là một trong 30 bạn trẻ với những nghiên cứu khoa học đang đóng góp công sức, trí tuệ tạo ra sự thay đổi trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo.

Tiến sĩ khoa học trẻ có nhiều bài báo quốc tế được tạp chí Forbes Việt Nam vinh danh - 1
Tiến sĩ trẻ Trần Quốc Quân và người thầy GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Thủ khoa trường ĐH Công nghệ

TS Trần Quốc Quân sinh năm 1990, là thủ khoa năm 2012 của Trường ĐH Công nghệ. Ngay từ những năm tháng khi còn là sinh viên, TS Quân đã được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức dìu dắt tham gia nhóm nghiên cứu và đã được giải nhất sinh viên NCKH trường ĐH Công nghệ cũng như cấp ĐHQGHN.

Với những thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu, Trần Quốc Quân đã được nhà trường quyết định cho làm chuyển tiếp Nghiên cứu sinh từ tháng 8/2013 và giữ lại làm cán bộ giảng dạy của nhà trường.

Đến năm 2018, NCS Trần Quốc Quân đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ Cơ học Kỹ thuật, tiếp tục giảng dạy và công tác tại PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN do GS Nguyễn Đình Đức khởi xướng và sáng lập, và TS Quân mới chuyển công tác sang ĐH Phenikaa từ tháng 1/2020.

Tiến sĩ khoa học trẻ có nhiều bài báo quốc tế được tạp chí Forbes Việt Nam vinh danh - 2
TS Trần Quốc Quân với các thành viên trong Nhóm nghiên cứu mạnh về Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của ĐH quốc gia Hà Nội.

Tác giả, đồng tác giả của 24 bài báo quốc tế ISI

Nhờ được tham gia vào nhóm nghiên cứu mạnh về Vật liệu và Kết cấu tiên tiến từ sớm và dưới sự hướng dẫn, dìu dắt trực tiếp của người thầy tâm huyết – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, TS Trần Quốc Quân đã tiếp cận được các hướng nghiên cứu mới và hiện đại nhất của thế giới trong lĩnh vực cơ học vật liệu như composite thông minh có cơ lý tính biến đổi FGM, vật liệu nano composite nhiều pha, vật liệu hấp thụ sóng nổ auxetic, penta graphit, các vật liệu tiên tiến sử dụng trong lĩnh vực năng lượng mới, …

Đây chính là điểm sáng được ghi nhận và đánh giá cao rất cao của hội đồng bình chọn. Sự trưởng thành và thành tích nghiên cứu của TS Quân gắn liền với hoạt động của nhóm nghiên cứu mạnh của GS Nguyễn Đình Đức và đến nay, TS Quân là tác giả và đồng tác giả của 24 bài báo trên các tạp chí quốc tế có uy tín trong danh mục ISI (SCI/SCIE) của ngành (đều made in Vietnam 100%) và có h-index theo thống kê của google scholar là 15.

Cũng trong thời gian làm NCS, Trần Quốc Quân cũng đã vinh dự được trao giải thưởng Nguyễn Văn Đạo vào năm 2016 – giải thưởng danh giá nhất trong lĩnh vực Cơ học của Việt Nam. Và đến nay toàn Việt Nam có 5 giải thưởng Nguyễn văn Đạo thì 2 trong số đó là học trò, là NCS của GS Nguyễn Đình Đức.

Trưởng thành từ môi trường khoa học “Made in Vietnam”

Vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách và trưởng thành trong nước, made in Vietnam 100%, trong môi trường khoa học của ĐHQGHN – một đai học hàng đầu của Việt Nam, từ thành công của TS Trần Quốc Quân cho thấy sự chuyển biến và hội nhập mạnh mẽ trong những năm gần đây của giáo dục đại học Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế, đồng thời cho thấy vai trò hết sức quan trọng của người Thầy và nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học.

Sự thành công của Quân có phần không nhỏ của người thầy – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, người thầy tận tụy và tâm huyết với nghề, với những bài giảng hay, truyền cho học trò cả kiến thức và những cốt lõi và sâu xa trong từng môn học. Hầu hết tất cả các sinh viên trong nhóm nghiên cứu của ông khi tốt nghiệp kỹ sư đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín.

Điều đáng trân trọng là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện rất khó khăn và thiếu thốn về kinh phí, CSVC, phòng thí nghiệm (PTN). Và đáng quý trọng và khâm phục là tất cả các học trò này của GS Đức đều là các em ở các tỉnh xa, con nhà nghèo, trong số đó có những em có hoàn cảnh gia đình đặc biết khó khăn.

Như vậy có thể thấy để nâng cao chất lượng đào tạo, cần và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố người Thầy là trước tiên và là quan trọng nhất, và chính người Thầy và môi trường đại học đã thắp sáng tài năng ở các em.

GS Đức cho biết, chiến lược phát triển của PTN trong những năm tới đây là đi vào 3 lĩnh vực nghiên cứu phục vụ thực tiễn: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu).

Đến nay, Phòng thí nghiệm của GS Đức đã và đang có quan hệ, hợp tác với các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,…để triển khai các nghiên cứu này.

GS. Nguyễn Đình Đức hy vọng Luật giáo dục đại học sửa đổi năm 2019 và những chính sách tới đây của Nhà nước sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy và hỗ trợ mạnh mẽ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, cho sự hình thành và phát triển của các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhà khoa học ưu tú, các trung tâm nghiên cứu xuất sắc trong các trường đại học; nhất là các trường đại học công lập có truyền thống – tạo cơ chế và động lực, nguồn lực để các nhà khoa học của Việt Nam, các bạn trẻ có điều kiện làm việc và cống hiến ngày càng nhiều hơn cho đất nước.

Được biết, Tạp chí Fobers Việt Nam dựa theo cách tính Forbes (Mỹ) lấy theo thời điểm công bố (03.2.2020), những người sinh sau ngày 04.2.1990 được hiểu là dưới 30 tuổi. Do vậy, trong danh sách có những người sinh năm 1990, Forbes Việt Nam ghi là 30 tuổi (theo cách tính thông thường lấy năm 2020 trừ năm sinh).

Về phương pháp đánh giá, từ các đề cử của công chúng và điều tra của đội ngũ phóng viên, Forbes Việt Nam rà soát các gương mặt trẻ nổi bật dưới 30 tuổi và lập hồ sơ từng cá nhân.

Hai hội đồng giám khảo bao gồm các chuyên gia và doanh nhân có uy tín trong các lĩnh vực cùng với các biên tập viên và phóng viên của Forbes Việt Nam đánh giá và lựa chọn 30 gương mặt nổi bật để giới thiệu trong danh sách này.

Nguyễn Vũ

GS Nguyễn Đình Đức: Nhật Bản xậy dựng xã hội 5.0

 Nhật Bản xây dựng xã hội 5.0

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội

            Cả thế giới đang ở trong bôi cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng hiện nay, Nhật Bản đã nói tới và đề ra nhiệm vụ xây dựng Xã hội 5.0.

Vậy xã hội 5.0 của người Nhật là gì?

Khái niệm “Xã hội 5.0” được đề xuất trong Kế hoạch Khoa học Công nghệ lần thứ 5 của Chính phủ Nhật Bản (the 5th Science and Techonology Basic Plan) 2016-2020. Các Kế hoạch Khoa học Công nghệ của Nhật Bản được xây dựng 5 năm một lần, kể từ lần đầu tiên vào năm 1996, căn cứ theo Luật Cơ sở về Khoa học và Công nghệ ban hành năm 1995. Luật này ra đời trong bối cảnh nước Nhật có mong muốn mạnh mẽ đột phá khỏi con đường khoa học công nghệ từ trước đến nay do phương Tây dẫn đầu, tiến lên khám phá những lĩnh vực khoa học công nghệ chưa từng có ai đặt chân đến, để góp phần giải quyết những vấn đề toàn cầu, những vấn đề thách thức nhân loại. Căn cứ trên các Kế hoạch Khoa học Công nghệ, suốt 20 năm qua, chính phủ Nhật Bản đã có những chính sách đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển, cải tổ cơ chế tổ chức thực hiện nghiên cứu và phát triển, xây dựng và trang bị các cơ sở nghiên cứu hiện đại, mở rộng hoạt động trao đổi và hợp tác quốc tế …

Trong Kế hoạch Khoa học và Công nghệ lần thứ năm, ngay từ 2016, khái niệm Xã hội 5.0 được Nhật Bản định nghĩa là “một xã hội lấy con người là trung tâm; là xã hội cân bằng giữa phát triển về kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bằng hệ thống tích hợp cao giữa không gian ảo và không gian thực”.

           Tại sao Nhật Bản lại đề ra xã hội 5.0

Xuất phát từ những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, nhu cầu cao về sản xuất lương thực và các sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho sự gia tăng dân số trên toàn cầu, cùng với những vấn đề kinh tế và xã hội mà nước Nhật đang phải đối mặt như: sự cạnh tranh kinh tế trên toàn cầu, xã hội “siêu” già hóa với hơn 100,000 người trên 100 tuổi (trong tổng dân số 120 triệu người) với gánh nặng chăm sóc y tế ngày càng tăng, dân số trẻ sụt giảm khiến thiếu lao động đặc biệt là lao động trong những lĩnh vực có mức độ sáng tạo thấp …, Kế hoạch Khoa học Công nghệ lần thứ 5 của Nhật Bản đã đề xuất khái niệm Xã hội 5.0 và các định hướng, các chính sách về khoa học và công nghệ để tiến đến Xã hội 5.0, một mặt khẳng định vị thế của Nhật Bản trong quá trình cạnh tranh toàn cầu, mặt khác đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề chung của nhân loại và giải quyết những vấn đề riêng của nước Nhật, hướng đến một sự phát triển bền vững.

Xã hội 5.0 của Nhật bản gồm những nội dung gì?

Theo quan niệm của Nhật Bản, từ trước đến nay xã hội loài  ngườ đã trải qua:

“Xã hội 1.0” là Thời kỳ nguyên thủy săn bắn,

“Xã hội 2.0” là Xã hội nông nghiệp

“Xã hội 3.0”  là Xã hội công nghiệp, là thời kỳ cơ khí hóa với đầu máy hơi nước và việc sử dụng điện

“Xã hội 4.0” là Xã hội thông tin, trong đó giá trị gia tăng được tạo ra nhờ việc kết nối các tài sản phi vật chất qua mạng internet.

Với Xã hội 5.0, có bốn yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhất trí tuệ nhân tạo (AI), big data, tự động hóa (robot) và IoT (internet vạn vật). Trong Xã hội 5.0, một lượng dữ liệu vô cùng lớn được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau, thông qua IoT, từ các cảm biến, camera v.v. trong không gian thực được tích lũy vào “không gian đám mây” (có thể gọi là không gian ảo). Tại không gian ảo đó, trí tuệ nhân tạo với khả năng phân tích, dự đoán vượt cả trí tuệ của con người sẽ phân tích khối dữ liệu khổng lồ nói trên, và truyền kết quả phân tích trở lại cho không gian thực dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Trước đây, trong xã hội thông tin (Xã hội 4.0), dữ liệu được thu thập về sẽ do con người phân tích, còn trong Xã hội 5.0, con người, vạn vật và các hệ thống được kết nối với nhau tại không gian ảo, siêu thông minh. Có thể ví von một cách hình tượng cho dễ hiểu là không gian ảo có trí tuệ nhân tạo là bộ não, robot-tự động hóa là cơ bắp và IoT và các dữ liệu lớn được phân tích làm nên hệ thần kinh, và kết quả phân tích được kỳ vọng là những kết quả tối ưu, vượt quá cả khả năng phân tích của con người. Nếu trong Xã hội 4.0, người máy thực hiện, thao tác theo sự điều khiển của con người, thì trong Xã hội 5.0, sẽ có người máy siêu thông minh, biết cảm thụ và nhận thức, có thể đưa ra các quyết định thay cho con người.

Tác động và ảnh hưởng của Xã hội 5.0 sẽ như thế nào?

Trên đà định hướng phát triển đó, người Nhật đang chạy đua nước rút, chuẩn bị để Thế giới chứng kiến thế vận hội 2020 tại Nhật Bản ngỡ ngàng với những thành phố thông minh, giao thông thông minh và những sản phẩm mới, siêu thông minh.

Người ta cho rằng trong Xã hội 5.0, cuộc sống của con người sẽ tốt đẹp hơn. Xã hội con người sẽ giải quyết được các vấn đề như biến đổi khí hậu, ùn tắc giao thông, thiếu lương thực, xóa khoảng cách giàu nghèo. Con người sẽ được hưởng những sản phẩm, dịch vụ, tiện ích tốt hơn, với số lượng vừa đủ, tại thời điểm phù hợp nhất.

Cụ thể, trong lĩnh vực chăm sóc y tế, có thể hình dung người cao tuổi sẽ không cần vất vả đi khám tại các bệnh viện khác nhau do nhiều bệnh khác nhau, mà có thể được chẩn đoán từ “bác sĩ ảo” qua màn hình máy tính từ nhà, được phát thuốc đến tận nhà bằng các phương tiện bay, hoặc được chăm sóc y tế bằng các robot.

Trong lĩnh vực giao thông, các xe tự lái sẽ giúp người tham gia giao thông thư giãn và an toàn, việc giao nhận bằng các phương tiện bay tự hành cũng sẽ giúp giảm thiểu lượng giao thông trên đường espanolcialis.net.

Trong lĩnh vực kỹ thuật hạ tầng, toàn bộ hệ thống sẽ được các cảm biến, camera giám sát và đo, xây lắp sử dụng nhiều robot, qua đó thực hiện xây dựng với độ chính xác cao, có kế hoạch duy tu bảo dưỡng tối ưu và ít sử dụng nhân công.

Tuy nhiên, để đạt được những thành quả đáng mong đợi đó trong Xã hội 5.0, sẽ cần phải vượt qua những rào cản về cơ chế chính sách giữa các bộ ngành (và xa hơn, thâm chí sẽ là giữa các quốc gia) với nhau; vượt qua rào cản về hệ thống pháp lý để tạo ra hành lang pháp lý mới phù hợp hơn với những dịch vụ mới, công nghệ mới; vượt qua rào cản về công nghệ; rào cản về sự tham gia của mọi thành phần trong xã hội; và cả rào cản về nhận thức, về sự chấp nhận của con người đối với những hình thái sản phẩm và  dịch vụ mới.

Kết luận. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ và với việc xây dựng Xã hội 5.0, người Nhật đã có tầm nhìn vượt lên hiện tại, nhằm xây dựng một xã hội  thích ứng tốt nhất với những thành tựu của cuộc cách mạng này. Xã hội 5.0 chính là xã hội mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, siêu thông minh, nhưng phát triển một cách bền vững vì con người, cho con người. Cách tiếp cận Xã hội 5.0 đảo ngược cách tiếp cận truyền thống. Theo truyền thống, sự đổi mới được thúc đẩy bởi công nghệ, làm cho xã hội phát triển. Xã hội 4.0, số hóa là trung tâm. Với xã hội 5.0, số hóa là phương tiện, con người mới là đạo diễn chính, làm cho con người hạnh phúc và được hưởng nhiều tiện ích mới trong xã hội siêu thông minh. Xã hội 5.0 điều tiết và làm cân bằng sự phát triển của công nghệ, nền kinh tế số hóa và sự phát triển xã hội.Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ và Xã hội 5.0 chính là quan hệ sản xuất mới, phù hợp với những đổi thay phi thường đó. Đến lượt mình, với những định hướng như trên, chắc chắn Xã hội 5.0 sẽ lại thúc đẩy mạnh mẽ sự ra đời và phát triển của một kỷ nguyên mới, được định dạng bởi không gian ảo và người máy sẽ làm thay cho con người và sống cùng với con người. Phải chăng, đó sẽ chính là khởi đầu cho một cuộc cách mạng mới: các mạng công nghiệp 5.0 đang đến?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

GS Nguyễn Đình Đức: 3 thành tựu nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam

THÀNH TỰU NỔI BẬT CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM QUA 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 29/TW-2013 VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp chấn hưng đất nước.  Giáo dục đại học (bao gồm cả đào tạo đại học, sau đại học) là cấu thành vô cùng quan trọng của hệ thống giáo dục, bởi nói đến giáo dục đại học là nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao – chính là giá trị cốt lõi – là chìa khóa để đất nước chúng ta có thể nắm bắt được những thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại và những vận hội mới, đưa đất nước ta vượt qua thách thức, tiến lên phía trước, sánh vai với các nước năm châu.

Đúng 5 năm trước đây, trong Nghị Quyết 29/TW ngày 04-11-2013 của BCH Trung ương (sau đây gọi tắt là NQ29) đã nhận định “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp’’ và đã chỉ ra giáo dục đại học “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.

Sau 5 năm triển khai thực hiện NQ29, đã có nhiều hội nghị, hội thảo tổng kết và đánh giá toàn diện và đầy đủ ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, khái quát lại , tôi thấy về tổng thể, giáo dục đại học có một số thành tựu lớn, nổi bật như sau:

        Một là, giáo dục đại học Việt Nam đã hội nhập và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế

         Có thể thấy chưa bao giờ giáo dục của Việt Nam đổi mới nhanh và mạnh mẽ, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế như những năm qua. Minh chứng cho nhận định này có thể thấy qua việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học.

Các cơ sở giáo dục đại học của chúng ta không thể hội nhập với thế giới nếu không được kiểm định chất lượng. Người tốt nghiệp có tấm bằng của cơ sở giáo dục hoặc của chương trình đào tạo đã được kiểm định có cơ hội công ăn việc làm và hội nhập tốt hơn. Đến nay, hầu hết tất cả các cơ sở giáo dục đại học đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng. Tính đến tháng 5/2016, có 229/266 (chiếm 86,1%) cơ sở giáo dục đại học do Bộ GDĐT quản lý đã thành lập được đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng, một số trường còn lại giao một số cán bộ phụ trách hoạt động đảm bảo chất lượng. Cả nước hiện nay có 05 Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục đươc thành lập và được cấp phép hoạt động. Đã tổ chức 5 đợt tuyển chọn và cấp thẻ kiểm định viên, có 346 người đã được cấp thẻ kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Tính đến ngày 31/8/2018, có 218 cơ sở giáo dục đại học và 33 trường cao đẳng sư phạm hoàn thành tự đánh giá; 124 cơ sở giáo dục đại học và 03 trường cao đẳng sư phạm được đánh giá ngoài, trong đó 117 cơ sở giáo dục đại học và 03 trường cao đẳng sư phạm đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng; 10 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng; 06 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và Mạng lưới đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA); 107 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và công nhận.

Công tác kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam đã định hướng theo các tiêu chí chuẩn mực của khu vực  và thế giới. Trong những năm gần dây, hoạt động kiểm định đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là các cấp quản lý giáo dục, các nhà trường được tiếp cận với mô hình quản lý hiện đại, tiên tiến. Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài nhiều nhà trường đã thấy được điểm mạnh, điểm yếu và đã xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực và hiệu quả hơn. Các cơ sở giáo dục đã thay đổi cách nhìn nhận về công tác quản lý và chỉ đạo, tăng cường năng lực quản lý nhà trường và quản lý dạy, học. Kiểm định chất lượng giáo dục tạo động lực cho công tác đánh giá nói chung, góp phần quan trong thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục và hội nhập với thế giới.

Bên cạnh hoạt động kiểm định, xếp hạng đại học là hoạt động cũng được Bộ giáo dục Đào tạo và các trường đại học Việt Nam đặc biệt coi trọng trong những năm qua. Nếu kiểm định phản ánh chất lượng thì xếp hạng đại học nói lên đẳng cấp.

Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục đại học Việt Nam, vào năm 2018, 2 Đại học Quốc gia có tên trong danh sách xếp hạng 1000 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS; trên 10 cơ sở GDĐH của Việt Nam có tên trong các bảng xếp hạng nghiên cứu SCImago, thứ hạng cũng dần được cải thiện. Ngoài ra, còn có 3 cơ sở GDĐH được chứng nhận 3 sao theo QS-Stars. Có thể thấy những thành tựu về kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học là minh chứng cho sự thành công, sự chuyển mình, cho sự đổi mới toàn diện và hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam với quốc tế trong thời gian qua.

          Hai là, tạo được sự đột phá, chuyển biến về chất lượng. Công bố quốc tế, chất lượng đội ngũ giảng viên và chất lượng người học ở bậc đại học và sau đại học đã có những bước nhảy vọt, đột phá so với giai đoạn trước

Trong thời gian 5 năm qua, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế mới về đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, trong đó chuyển đổi hoàn toàn từ đào tạo niên chế sang tín chỉ và yêu cầu xác định chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo. Chất lượng đầu ra của người học về ngoại ngữ và chuyên môn đều yêu cầu cao hơn so với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ đến nay đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc đại học là B1; chuẩn đầu vào với thạc sĩ là B1 và B2 với NCS. Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo còn yêu cầu phải trang bị kiến thức về CNTT và các kỹ năng mềm cho người học. Đây là những chỉ đạo và định hướng đổi mới giáo dục đại học hết sức quan trọng, đúng đắn và kịp thời.

Mặt khác, trước đây, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu thường chỉ được chú trọng ở các đại học lớn. Sau khi có NQ29, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, hoạt động đào tạo gắn với nghiên cứu được Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm chỉ đạo triển khai ở tất cả các trường đại học. Các trường đại học đã chú trọng xây dựng các nhóm nghiên cứu (NNC) để tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Ngoài hai Đai học Quốc gia, nhiều trường đại học đã xác định mục tiêu phát triển thành các đại học nghiên cứu tiên tiến. Theo báo cáo khảo sát của Bộ giáo dục Đại học, tính đến hết năm 2017 trong các trường đại học có 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm nghiên cứu nhất là Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Đà Nẵng, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, ĐHQG Hà Nội, ĐH Tây Nguyên,..

Thành tích lớn nhất của 5 năm qua là chúng ta đã tạo được sự chuyển biến đột phá về chất lượng. Chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, GS, PGS,TS không yêu cầu bắt buộc có công bố quốc tế, thì nay, với quy chế mới về tiêu chuẩn chức danh, bắt buộc yêu cầu GS,  PGS và cả các  NCS khi bảo vệ luận án đều phải có công bố quốc tế.

Nếu như năm 2006, mới có anh Trần Hữu Nam, NCS ngành toán của ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN lần đầu tiên làm NCS trong nước đã công bố được 1 bài ISI trong quá trình làm luận án(và đã được đặc cách bảo vệ sớm luận án TS, thì nay 80% các NCS trong lĩnh vực KHTN- CN của ĐHQGHN, cũng như nhiều NCS của ĐH Bách Khoa Hài Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Duy Tân  và nhiều trường đại học khác khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI,….Cá biệt có những trường hợp đặc biệt xuất sắc như NCS Trần Quốc Quân, NCS Phạm Hồng Công – ngành Cơ học Kỹ thuật của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN, từ khi là sinh viên đến khi bảo vệ luận án TS chỉ có 3 năm (được chuyển tiếp NCS) và mỗi em đã có khoảng 20 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, còn hơn nhiều NCS được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài).

Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và các nhóm nghiên cứu, công bố quốc tế của Việt Nam đã đặc biệt tăng mạnh trong 3 năm gần đây. Năm 2013, trước khi có NQ 29, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2309 bài, thì theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập của ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.

Nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế đã trở thành tiêu chí bắt buộc của giảng viên đại học. Công văn việc làm, kiến thức chuyên môn song hành với ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho người học là kim chỉ nam cho hoạt động đào tạo trong các trường đại học hiện nay. Cho thấy giáo dục đại học Việt Nam đang có sự chuyển biến và đột phá về chất hết sức quan trọng, theo các yêu cầu và chuẩn trình độ quốc tế.

 Ba là, chăm lo đào tạo và bồi dưỡng nhân tài; có sự chuyển dịch mạnh mẽ và kịp thời cơ cấu ngành nghề, nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0.

              Một thành tựu nữa không thể không nhắc đến là đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Bên cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ giáo dục và Đào tạo còn chỉ đạo các trường đại học tích cực triển khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến, chất lượng cao để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Chương trình tài năng đào tạo các cử nhân, kỹ sư có năng khiếu trong lĩnh vực khoa học cơ bản (cử nhân tài năng) và kỹ thuật công nghệ (kỹ sư tài năng). Chương trình đào tạo tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, áp dụng cho các ngành khoa học tự nhiên-công nghệ, sử dụng toàn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và cấp kinh phí triển khai thực hiện. Đội ngũ giảng viên tham gia chương trình là của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài, nhằm phát triển quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu. Bên cạnh đó, với chương trình 911, 322, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ, ưu tú ở nước ngoài.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đang tạo ra những cơ hội cũng như thách thức với giáo dục đại học. Giáo dục đại học Việt Nam bước đầu đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề phù hợp. Theo số liệu tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ giáo dục và Đào tạo, tổng quy mô sinh viên (SV) ĐH là 1.767.879 sinh viên, giữ khá ổn định so với những năm trước; quy mô SV cao đẳng sư phạm giảm 14,3%, chỉ còn 47.800 SV. Phần lớn SV tập trung theo học các ngành thuộc Khối ngành V, III: Toán và thống kê; Máy tính và công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ thuật; Kỹ thuật; Sản xuất chế biến; Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thuỷ sản; Thú y và Khối ngành: kinh doanh quản lý, pháp luật. Tính từ đầu năm 2016 đến 31/7/2017, tổng số ngành mở mới ở trình độ ĐH là 184 ngành, tập trung chủ yếu vào các nhóm ngành Kỹ thuật, Công nghệ kỹ thuật, Máy tính và Công nghệ thông tin, Khoa học xã hội và hành vi, Kinh doanh quản lý, Pháp luật. Mới đây, Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã có công văn 5444/BGDĐT-GDĐH ngày 16/11/2017 ban hành cơ chế đặc thù về đào tạo CNTT, cho phép sinh viên các ngành khác được học thêm văn bằng 2, chính quy về CNTT. Một số ngành mới khác như an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, robotic, khoa học dữ liệu, công nghệ hàng không vũ trụ đã được mở ở ĐHQGHN; các ngành tự động hóa, CNTT, khoa học máy tính, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano,…được giảng dạy và đào tạo ở nhiều  trường đại học trong cả nước, cho thấy ngành giáo dục đại học của chúng ta đang đi đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 đang diễn ra khắp nơi cũng như trong tất cả các lĩnh vực trên thế giới.

           Tóm lại, trong 5 năm thực hiện NQ 29, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Bài viết này muốn tổng kết và nhấn mạnh đến 3 thành tựu nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam đã làm được trong 5 năm qua, đó là chúng ta đã hội nhập và theo chuẩn mực của quốc tế; đã có sự đột phá về chất lượng và có sự chuyển mình mạnh mẽ về chương trình đào tạo, cơ cấu nguồn nhân lực. Những thành tựu đổi mới đó tác động đến toàn bộ hoạt động của ngành giáo dục, và sâu xa hơn, đến toàn thể xã hội, chi phối và làm đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục của nước nhà. Thành quả lớn lao nhất là từ chính những đổi mới đó, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận và nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của đất nước  trong giai đoạn mới.

GS.TSKH Nguyễn Đình ĐứcĐại học Quốc gia Hà Nội

Chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức

Chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức: 11/10

Đại diện BGH Trường ĐHCN, các đồng  nghiệp, học trò chân thành chúc mừng sinh nhật GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN, Chủ nhiệm Bộ môn. GS là người  đã dày công gây dựng nhóm nghiên cứu, sáng lập Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, sáng lập Bộ môn (Khoa) Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông – người đã dìu dắt bao thế hệ học trò đi đến thành công.

Xin cảm ơn Thầy.  Các thế hệ học trò xin gửi tới người Thầy đáng kính lời tri ân, tấm lòng biết ơn sâu sắc nhất, và kính chúc Thầy luôn dồi dào sức khỏe, luôn thật nhiều niềm vui và hạnh phúc, cống hiến thật nhiều cho khoa học và cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.  Chúng em rất tự hào về Thầy.

 IMG_3373

 

GS Nguyễn Đình Đức tham gia Ủy ban quốc tế về FGM

Tháng 8/2018, Hiệp hội quốc tế về vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi đã tổ chức Congress tại Nhật Bản ((GS Akira Kawasaki, Tohoku University, Nhật Bản và GS Omer Van Der Biest, Katholieke Universiteit Leuven, Bỉ – là đồng Chủ tịch) đã kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội và nhất trí giới thiệu, phê chuẩn GS Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN đại diện cho các nhà khoa học của Việt Nam tham gia Ủy ban này.

Hiệp hội tập hợp tất cả các nhà khoa học trên toàn thế giới về vật liệu composite chức năng thông minh FGM. Ủy ban quốc tế có đại diện của 13 quốc gia, trong đó từ năm 2018 sẽ có đại diện của Việt Nam (Nghiên cứu và công bố quốc tế của GS Nguyễn Đình Đức và các nhà khoa học Việt Nam về FGM có uy tín và tiếng tăm trong cộng đồng khoa học quốc tế).

Sự kiện này mở ra cơ hội hợp tác, hội nhập quốc tế trên tầm cao mới cho các nhà khoa học Việt Nam.

DANH SÁCH THÀNH VIÊN ỦY BAN QUỐC TẾ VỀ FGMs:

1.[USA]

– Prof. Glaucio H. Paulino
Co-Chairman Department of Civil and Environmental
Engineering, Georgia Institute of Technology,
5142B Jesse W.Mason Building, 790 Atlantic Drive NW, Atlanta, GA30332

– Prof. Marek-Jerzy Pindera
Dept. of Civil Engineering School of Engineering and Applied Science
University of Virginia
Thornton Hall Charlottesville, Virginia
22904-4742

– Prof. Jeongho Kim University of Connecticut,
Civil & Environmental Eng.Dept.
261 Glenbrook Rd., Unit 3037
US-Storrs 06269

-Prof. Huming Yin Department of Civil Engineering and Engineering Mechanics, Columbia University
Address: 634 SW Mudd (Mail Code: 4709)
500 West 120th Street
New York, NY 10027

2.[GERMANY]
– Prof. Thorsten Gerdes University of Bayreuth,
Keylab Glastechnologie, Lehrstuhl Keramische Werkstoffe, 95440 Bayreuth, Germany

3.[FRANCE]
Prof. Dr. Jean-François Silvain Institut de Chimie de la Materiere Condensee de Bordeaux, ICMCB-CNRS,
87, Avenue du Docteur Albert Schweitzer, F-33608 PESSAC Cedex, France

4. [BELGIUM]
Prof. Omer Van Der Biest
Co-Chairman of IACFGM Dept. of Metallurgy and Materials Engineering
Katholieke Universiteit Leuven
Kasteelpark Arenberg 44
3001 Heverlee-Leuven

5. [FINLAND]
Prof. Michael M. Gasik
Aalto University Foundation, School of Chemical Technology (Aalto CHEM), Dept. Material Science & Engineering, P.O.Box 16100, FIN-00076 AALTO, Finland

6. [RUSSIA]
-Prof. Evgeny Levashov
Scientific-Educational Center of SHS,
Head of the Department “Powder Metallurgy and Functional Coatings”, National University of Science and Technology “Moscow Institute of Steel and Alloys”, Leninsky Prospect, 4, Moscow, RU-119049

-Dr. Vladimir Sanin Institute of Structural Macrokinetics and Materials Science (ISMAN)
Lab. SHS Melts and Cast Materials
Chernogolovka, Moscow reg., 142432 Russia

7. [CHINA]
-Prof. Lianmeng Zhang State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology
Wuhan 430070

-Prof. Qiang Shen State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology, 122 Luoshi Road,
Wuhan 430070

-Prof. Qingjie Zhang State Key Laboratory of Materials Synthesis
and Processing, Wuhan University of Technology,
Wuhan 430070

-Prof. Wei Pan Department of Materials Science and Engineering, Tsinghua University
Beijing, 100084 China

-Prof. Chang-Chun Ge University of Science and Technology Beijing, Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics
Xue Yuan Lu No.30, Beijing 100083,China

-Dr. Xiao-Na Ren Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics, School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing,
30 Xueyuan Road, Beijing 100083, China

-Prof. Jing-Feng Li
Department of Materials Science and Engineering,
Tsinghua University, Beijing, 100084, P. R. China

-Prof.Zhangjian Zhou School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing, Lab. of Special Ceramics & P/M, Beijing 100083, China

8. [TURKEY]
Assoc. Prof.
Serkan Dag
Middle East Technical University
Department of Mechanical Engineering, Room # B318, METU, Ankara 06531

9. [BRAZIL]
-Prof. Fernando A. Rochinha Federal University of Rio De Janeiro (UFRJ), Mechanical Engineering Department, Centro de Tecnologia, Bloco G, Sala 203/204,
Cidade Universitária – Ilha do Fundão
PO Box 68503
Rio de Janeiro, 21945-970

– Prof. Emilio C.N.Silva Department of Mechatronics and Mechanical Systems Engineering, University of Sao Paulo,
Av. Professor Mello Moraes, 2231, Sao Paulo,
SP, Brazil, 05508-900

– Prof. Luis Augusto Rocha UNESP – Universidade Estadual Paulista “Júlio de Mesquita Filho”
Faculdade de Ciências, Campus de Bauru (www.fc.unesp.br)
Departamento de Física
Av. Eng. Luiz Edmundo Carrijo Coube, 14-01
17033-360 – Bauru –
SP Brazil

10. [SLOVENIA]
Dr. Sasa Novak Jozef Stefan Institute, Department for Nanostructured Materials – K7, Jamova 39,
SI-1000 Ljubljana, Slovenia

11. [KOREA]
Prof. Hansang Kwon
Department of Materials System Engineering,
Engineering Building 7, Pukyong National University
365 Sinseon-ro, Nam-gu,Busan 608-739, South Korea

12. [VIETNAM]
Prof. Nguyen Dinh Duc
Vietnam National University, Hanoi
Advanced Materials and Structures Lab.,
144 Xuan Thuy Road, Cau Giay District, Hanoi, Vietnam

13. [JAPAN]
– Prof. Akira Kawasaki
Chairman & Secretary of IACFGMs
Department of Materials Processing,
Graduate School of Engineering,
Tohoku University,
6-6-02 Aza-Aoba, Aramaki, Aoba-ku, Sendai, 980-8579 Japan

– Prof. Emeritus Yoshinari Miyamoto Toyotanso, Co.
5-7-12 Takesima, Nisiyodogawa-ku, Osaka, 555-0011, Japan

-Dr. Akinaga Kumakawa
Japan Aerospace Technology Foundation, 2-1-40 Takamori, Izumi-ku, Sendai, 981-3203 Japan

-Dr. Yoshikazu Shinohara,
National Institute for Materials Science
1-2-1, Sengen, Tsukuba, Ibaraki 305-0047

-Prof. Takashi Goto Institute for Materials Research, Tohoku University, Katahira 2-1-1, Aoba, Sendai, Japan

-Prof. Yoshimi Watanabe Department of Physical Science and Engineering, Graduate School of Engineering, Nagoya Institute of Technology, Gokiso-cho, Showa-ku,
Nagoya 466-8555, Japan

-Prof. Kazuhiro Hasezaki
Tokushima University, 2-1 Minamijyousanjima,
Tokushima 770-8506, Japan

-Prof. Soshu Kirihara Joining and Welding Research Institute, Osaka University, Mihogaoka 1-11, Ibaraki,
Osaka 567-0047, Japan

Emeritus members :
-Prof. Emer. Wolfgang G.J. Bunk
Am Hagen 14, D-51503
Roesrath-Forsbach, Germany

-Prof. Emer. Fazil Erdogan
Me-Mech. Dept. Bldg. 19
Lehigh University
Bethlehem, PA 18015, USA