TẬP HUẤN SỬ DỤNG THIẾT BỊ MỚI

Máy thử bền mỏi-xoắn, động lực học Istron 8874 (UK) – Với sự giúp đỡ của các chuyên gia kỹ thuật của chính hãng đến từ văn phòng đại diện chi nhánh của hãng tại Thái Lan sang, PTN Vật liệu Tiên tiến chống chịu các điều kiện khắc nghiệt của Khoa công nghệ kỹ thuật Xây dựng Giao thông đã chính thức được vận hành sau thời gian dài Covid.
Các thiết bị hiện đại giúp các kỹ sư tương lai hiểu sâu hơn về ngành nghề, gắn học với hành, và còn giúp phát triển các hướng nghiên cứu mới của Khoa.
Máy thử mỏi hãng Istron của USA. Model 8874 thử mỏi, xoắn, động, được lắp ráp tại UK nên có xuất xứ UK. Còn máy thử tĩnh Istron sản xuất tại USA, xuất xứ USA.
Trong ảnh: Cùng với chuyên gia, các giảng viên trẻ tham gia tập huấn – sử dụng thiết bị PTN ở Hòa Lạc 02/4/2021

Một Giáo sư Việt Nam là thành viên Ban biên tập Tạp chí quốc tế ISI của Đức

Ngày 18/2/2021, Giáo sư Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội đã chính thức trở thành thành viên Hội đồng biên tập quốc tế của Tạp chí Toán và Cơ học ứng dụng của Đức.

Tạp chí có tên là: Journal of Applied Mathematics and Mechanics (Zeitschrift für Angewandte Mathematik und Mechanik), Nhà Xuất Bản WILEY. Tạp chí viết tắt là ZAMM.

ZAMM đã có quá trình hình thành và phát triển đến nay là 101 năm (được thành lập và xuất bản lần đầu từ năm 1920). Thành viên Ban biên tập là các nhà khoa học xuất sắc của thế giới trong lĩnh vực Toán học và Cơ học. Đăng được kết quả nghiên cứu trên tạp chí này vô cùng khó.

Các kết quả nghiên cứu gửi đến tạp chí đều được xem xét và bình duyệt hết sức nghiêm túc, chặt chẽ. Tạp chí này lọt vào danh mục các tạp chí quốc tế trong danh mục SCI, rất có uy tín của Đức (Germany) và cộng đồng Toán học và Cơ học quốc tế.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Được biết, đến nay, Giáo sư Nguyễn Đình Đức là nhà khoa học Việt Nam làm thành viên hội đồng biên tập, hội đồng quốc tế của 9 tạp chí quốc tế trong danh mục ISI của những nhà xuất bản uy tín nhất thế giới, là:

Journal Cogent Engineering (UK, Nhà xuất bản Taylor & Francis); Journal of Science: Advanced Materials and Devices  (Nhà xuất bản Elsevier); Journal of Science and Engineering of Composite Materials (Nhà xuất bản De Gruyter); Journal of Mechanical Engineering Science (Proc. IMechE Part C,  Nhà xuất bản SAGE); Journal Science Progress (Nhà xuất bản SAGE); Alexandria Engineering Journal (Nhà xuất bản Elsevier); Journal of Mechanical Science and Technology (Nhà xuất bản Springer); Journal of Mechanics of Composite Materials (Nhà xuất bản Springer); Journal of Applied Mathematics and Mechanics (Zeitschrift für Angewandte Mathematik und Mechanik, Nhà xuất bản WILEY)

Việc Giáo sư Nguyễn Đình Đức tham gia hội đồng của nhiều tạp chí quốc tế ISI có uy tín của nhiều quốc gia khác nhau không chỉ khẳng định những cống hiến và uy tín của Giáo sư Đức được thừa nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế, sánh vai với các nhà khoa học của thế giới, mà còn khẳng định uy tín và vị thế khoa học của ngành Cơ học Việt Nam, uy tín và vị thế học thuật của Đại học Quốc Gia Hà Nội và cộng đồng khoa học Việt Nam với thế giới.

Sự kiện này cũng là minh chứng khẳng định sự bứt phá của các nhà khoa học Việt Nam đang làm việc cơ hữu trong nước, vừa trực tiếp nghiên cứu, giảng dạy và cống hiến cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà  – mặc dù cơ sở vật chất và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nhưng đã nỗ lực vượt bậc và vươn lên ngoạn mục, sánh vai với các nhà khoa học thế giới, là thành quả của sự đổi mới, hội nhập manh mẽ của khoa học công nghệ và giáo dục đại học Việt Nam trong những năm gần đây.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, Trưởng ban Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc PTN về Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường ĐH Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ông cũng là người đề xuất và sáng lập ngành Kỹ thuật hạ tầng ở ĐH Việt Nhật. Giáo sư Đức là một trong những nhà khoa học xuất sắc góp phần định danh nền khoa học công nghệ Việt Nam trên bản đồ khoa học công nghệ thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức liên tục lọt vào danh sách 100.000 nhà khoa học hàng đầu trên thế giới có ảnh hưởng lớn nhất năm 2019, 2020 theo bảng xếp hạng của Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ.

Đặc biệt, năm 2020, ông còn là 1 trong 2 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc cơ hữu trong nước lọt vào danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời và đứng đầu trong bảng xếp hạng các nhà khoa học Việt Nam có tầm ảnh hướng nhất thế giới năm 2020.

Theo dân trí

Chuyển biến đột phá về chất lượng giáo dục Đại học của Việt Nam

GD&TĐ – 3 thành tựu lớn, nổi bật của GDĐH Việt Nam sau một thời gian thực hiện Nghị quyết 29 được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Giám đốc Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Trưởng ban Đào tạo (ĐHQGHN) – tổng kết.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong một giờ giảng cho sinh viên Trường ĐH Việt Nhật.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong một giờ giảng cho sinh viên Trường ĐH Việt Nhật.

GD đại học Việt Nam đã hội nhập, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế

“Có thể thấy chưa bao giờ giáo dục (GD) của Việt Nam đổi mới nhanh và mạnh mẽ, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế như những năm qua”. Minh chứng rõ nhất được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đưa ra cho nhận định này là những kết quả trong việc kiểm định chất lượng GD đại học (ĐH), xếp hạng ĐH.

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, các cơ sở GDĐH của chúng ta không thể hội nhập với thế giới nếu không được kiểm định chất lượng. Người tốt nghiệp có tấm bằng của cơ sở GD hoặc của chương trình đào tạo đã được kiểm định sẽ có cơ hội công ăn việc làm và hội nhập tốt hơn ở trong và ngoài nước.

Đến nay, hầu hết tất cả các cơ sở GDĐH của Việt Nam đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng; 5 trung tâm kiểm định chất lượng GD đã được thành lập và được cấp phép hoạt động.

Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước đã có 149 cơ sở GDĐH và 9 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDĐH của Việt Nam, chiếm khoảng 55% tổng số các trường ĐH, học viện trong cả nước. Có 7 trường ĐH được công nhận bởi tổ chức đánh giá/kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA). Có 145 chương trình đào tạo của 43 trường ĐH được đánh giá và công nhận theo tiêu chuẩn trong nước; 195 chương trình đào tạo của 32 trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Công tác kiểm định chất lượng GD của Việt Nam đã định hướng theo các tiêu chí chuẩn mực của khu vực, thế giới. Những năm gần đây, hoạt động kiểm định đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là các cấp quản lý GD, các nhà trường được tiếp cận với mô hình quản lý hiện đại, tiên tiến.

Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài, nhà trường thấy được điểm mạnh, điểm yếu và xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực, hiệu quả hơn. Các cơ sở GD đã thay đổi cách nhìn nhận về công tác quản lý và chỉ đạo, tăng cường năng lực quản lý nhà trường, quản lý dạy, học. Kiểm định chất lượng GD tạo động lực cho công tác đánh giá nói chung, góp phần quan trong thúc đẩy nâng cao chất lượng GD và hội nhập với thế giới.

Bên cạnh hoạt động kiểm định, xếp hạng ĐH là hoạt động được Bộ GD&ĐT, các trường ĐH Việt Nam đặc biệt coi trọng trong những năm qua.

“Nếu kiểm định phản ánh chất lượng thì xếp hạng ĐH nói lên đẳng cấp”. Cho biết điều này, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức dẫn sự kiện năm 2018, lần đầu tiên trong lịch sử GDĐH Việt Nam, 2 ĐHQG có tên trong danh sách xếp hạng 1000 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS. Đến nay, nước ta có 4 ĐH lọt vào tốp 1.000 thế giới; 11 trường ĐH nằm trong bản xếp hạng Châu Á của QS; nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong tốp 500 thế giới… Đó là những thành tựu lớn lao, kết quả của sự bứt phá vươn lên trong những năm gần đây của GDĐH Việt Nam.

Thành tựu về kiểm định chất lượng, xếp hạng ĐH là minh chứng cho thành công, sự chuyển mình, đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế mạnh mẽ của GDĐH Việt Nam trong thời gian qua.

Chuyển biến đột phá về chất lượng

Kết quả nổi bật thứ 2, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là GDĐH tạo được sự đột phá, chuyển biến về chất lượng. Công bố quốc tế, chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng người học ở bậc ĐH, sau ĐH có bước nhảy vọt so với giai đoạn trước.

Bộ GD&ĐT đã ban hành Quy chế mới về đào tạo ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ; trong đó chuyển đổi hoàn toàn từ đào tạo niên chế sang tín chỉ và yêu cầu xác định chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo.

Chất lượng đầu ra của người học về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học đều yêu cầu cao hơn so với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc ĐH là B1, với các chương trình quốc tế, tài năng, chất lượng cao sinh viên còn đạt chuẩn đầu ra cao hơn; chuẩn đầu vào với thạc sĩ là B1, B2 với nghiên cứu sinh. Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo còn chú trọng đổi mới sáng tạo, trang bị kiến thức về các kỹ năng mềm và khởi nghiệp cho người học. Đây là những chỉ đạo, định hướng đổi mới nâng cao chất lượng GDĐH hết sức quan trọng, đúng đắn, kịp thời.

Mặt khác, trước đây, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu thường chỉ được chú trọng ở các ĐH lớn. Sau khi có Nghị quyết 29, để nâng cao chất lượng GDĐH, hoạt động đào tạo gắn với nghiên cứu được Bộ GD&ĐT quan tâm chỉ đạo triển khai ở tất cả các trường ĐH.

Chính vì vậy, những năm gần đây, các trường ĐH đã đặc biệt chú trọng xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh để tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế; cũng như thông qua môi trường nhóm nghiên cứu để nâng cao chất lượng đội ngũ, chất lượng đào tạo. Từ các nhóm nghiên cứu mạnh của các trường ĐH đã tiến tới thành lập một số phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc, có vai trò dẫn dắt trong hoạt động khoa học công nghệ của quốc gia. Ngoài 2 ĐHQG, nhiều trường ĐH đã xác định mục tiêu phát triển thành các ĐH nghiên cứu tiên tiến.

Chất lượng đội ngũ tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, GS, PGS, TS không yêu cầu bắt buộc có công bố quốc tế; thì nay, với quy chế mới về tiêu chuẩn chức danh, bắt buộc yêu cầu GS,  PGS, cả các nghiên cứu sinh khi bảo vệ luận án đều phải có công bố quốc tế.

Năm 2006, mới có Trần Hữu Nam, nghiên cứu sinh ngành Toán của Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội – lần đầu tiên là nghiên cứu sinh trong nước công bố được 1 bài ISI trong quá trình làm luận án. Nhưng đến nay, hơn 80% nghiên cứu sinh trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên – công nghệ của ĐHQG Hà Nội, cũng như nhiều nghiên cứu sinh của các trường ĐH khác khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố trên các tạp chí  quốc tế ISI,…

Cá biệt, có trường hợp đặc biệt xuất sắc như NCS Trần Quốc Quân, NCS Phạm Hồng Công – ngành Cơ học Kỹ thuật của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQG Hà Nội, từ khi là sinh viên đến khi bảo vệ luận án TS chỉ có 3 năm (được chuyển tiếp NCS), mỗi người đã có khoảng 20 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI uy tín. Với thành tích như vậy là niềm mơ ước của nhiều cơ sở đào tạo NCS ở nước ngoài.

Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu, công bố quốc tế của Việt Nam tăng mạnh. Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt Nam công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín là 12.475 bài, đứng thứ 49 thế giới (so với 2015 tăng 2,7 lần và tăng 9 bậc). Chỉ số trích dẫn các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cũng ngày càng tăng. Mấy năm gần đây, một số nhà khoa học Việt Nam cũng đã có tên trong bảng xếp hạng các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng của thế giới được quốc tế đánh giá, bình chọn khách quan. Đây là những chuyển biến quan trọng về chất lượng đội ngũ, là kết quả rất đáng tự hào của GDĐH Việt Nam.

Nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế đã trở thành tiêu chí bắt buộc của giảng viên ĐH. Công ăn việc làm, kiến thức chuyên môn song hành với ngoại ngữ và kỹ năng về CNTT, kỹ năng mềm và khởi nghiệp cho người học là kim chỉ nam cho hoạt động đào tạo trong các trường ĐH hiện nay. Điều này cho thấy GDĐH Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ, đột phá về chất hết sức quan trọng theo các yêu cầu, chuẩn trình độ quốc tế.

Chuyển dịch nhanh, mạnh, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Kết quả thứ 3 được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chỉ ra là chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nhân tài; có sự chuyển dịch mạnh mẽ, kịp thời cơ cấu ngành nghề, nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0.

Bên cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các trường ĐH tích cực triển khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến, chất lượng cao để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài.

Tham gia các chương trình này là những giảng viên ưu tú của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài, nhằm phát triển quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu. Bên cạnh đó, với chương trình 322, 911, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ, ưu tú đi học ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đang tạo ra những cơ hội cũng như thách thức với GDĐH. GDĐH Việt Nam đang tích cực chuyển đổi số; bên cạnh đó đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nhanh, phù hợp.

Bộ GD&ĐT cũng đã có công văn 5444/BGDĐT-GDĐH ban hành cơ chế đặc thù về đào tạo CNTT, cho phép sinh viên các ngành khác được học thêm văn bằng 2, chính quy về CNTT. Một số ngành mới khác như an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, robotic, khoa học dữ liệu, công nghệ hàng không vũ trụ đã được mở ở ĐHQGHN. Các ngành tự động hóa, CNTT, khoa học máy tính, công nghệ phần mềm, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, quản lý hệ thống thông tin, công nghệ nano, vật liệu và kết cấu tiên tiến,… được giảng dạy, đào tạo ở nhiều trường ĐH khác trong cả nước. Điều đó cho thấy GDĐH của Việt Nam đang đi nhanh, đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 đang diễn ra khắp nơi cũng như trong tất cả các lĩnh vực trên thế giới.

“Những thành tựu đổi mới của GDĐH tác động đến toàn bộ hoạt động của ngành GD, và sâu xa hơn, đến toàn thể xã hội, chi phối và làm đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống GD của nước nhà. Thành quả lớn lao nhất là từ chính những đổi mới đó, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận và nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao, vẻ vang của đất nước trong giai đoạn mới.”
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là chuyên gia hàng đầu về vật liệu và kết cấu tiên tiến. Ông đã công bố 300 bài báo, công trình khoa học và là thành viên hội đồng quốc tế của 7 tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Ông là một trong những nhà khoa học xuất sắc góp phần định danh nền khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam trên bản đồ KHCN thế giới. Năm 2020, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong 3 nhà khoa học đang làm việc ở Việt Nam vào top 10.000 các nhà khoa học có ảnh hưởng hàng đầu thế giới và xếp hạng 5789 – đứng đầu trong các nhà khoa học ở Việt Nam theo bảng xếp hạng nhà khoa học của Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ.

Nhóm nghiên cứu mạnh – giải pháp đột phá về chất lượng giáo dục đại học

Đó là góp ý của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Trưởng ban Đào tạo (ĐHQGHN) tới văn kiện Đại hội Đảng XIII về lĩnh vực giáo dục đại học.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Trưởng ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những nhà khoa học xuất sắc góp phần định danh nền khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam trên bản đồ KHCN thế giới.

Năm 2020, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức lọt vào top 10.000 các nhà khoa học có ảnh hưởng hàng đầu thế giới và đứng đầu trong danh sách các nhà khoa học đang làm việc ở Việt Nam  theo bảng xếp hạng của Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ.

Trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII sắp tới, chia sẻ về vấn đề khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo của nước nhà, GS. Nguyễn Đình Đức đề xuất thúc đẩy các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học như một trong những giải pháp đột phá nâng cao tiềm lực, hiệu quả hoạt động KHCN và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đạt chuẩn mực quốc tế.

Nhóm nghiên cứu – môi trường khoa học thuận lợi nhất để các nhà khoa học trao đổi học thuật

Có thể đánh giá hoạt động KHCN thời gian qua đã có những bước phát triển đột phá rất đáng tự hào. Trong đó có  công bố quốc  của Việt Nam trong năm vừa qua tăng vượt bậc, bằng số liệu các công bố của 5 năm trước cộng lại.

Hoạt động KHCN nước ta cũng hướng tới thực tiễn nhiều hơn. Trước kia, nhiều đề tài nghiên cứu làm xong cất ngăn kéo nhưng giờ yêu cầu phải gắn liền với thực tiễn. Chính vì thế, đã có nhiều đề tài giải quyết thành công những yêu cầu của thực tiễn và doanh nghiệp như một số kết quả trong lĩnh vực chuyển đổi số, truyền thông (5G), nông nghiệp, dược phẩm, công nghệ sinh học, … hoặc như trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe – dịch Covid-19 vừa rồi, nước ta đã bước đầu chế tạo được vắc xin.

Chúng ta cũng đã có những thành công tuyệt vời về ghép tạng. Những thành tựu đó cho thấy Việt Nam có những kết quả nghiên cứu không thua kém so với thế giới.

Bên cạnh đó, các chính sách về quản lý KHCN cũng ngày càng được đổi mới, giảm thủ tục hành chính, tăng tính tự chủ và khoán từng phần, từ đó ngày càng thúc đẩy hiệu quả các hoạt động KHCN trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo.

Trong giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học luôn gắn kết chặt chẽ với đào tạo. Đào tạo thông qua nghiên cứu và nghiên cứu khoa học để tiếp cận đỉnh cao của trí thức, từ đó quay trở lại đào tạo với chất lượng cao, trình độ cao. Vì vậy, sự hình thành các nhóm nghiên cứu (NNC) trong các trường đại học như một lẽ tự nhiên và tất yếu.

Danh tiếng của các trường đại học lớn trên thế giới thường được gắn với tầm vóc các công trình khoa học và tên tuổi của các nhà khoa học lớn. Nhà khoa học muốn phát triển được ý tưởng khoa học, xây dựng được trường phái học thuật của mình hoặc giải quyết được một vấn đề khoa học liên ngành phải thiết lập được nhóm cộng sự và học trò, tức là phải xây dựng được nhóm nghiên cứu.

Đến lượt mình, nhóm nghiên cứu lại là môi trường khoa học thuận lợi nhất để các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp lực lượng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết các vấn đề mới của khoa học, và qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN, đào tạo nghiên cứu sinh.

Nhóm nghiên cứu chính là mô hình và môi trường gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo và có thể triển khai đào tạo theo cá thể hóa.

Từ thực tiễn xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến của tôi ở ĐHQGHN trong nhiều năm qua cho thấy nhóm nghiên cứu còn là môi trường thu hút các nhà khoa học có chuyên môn gần để phát triển môi trường học thuật chuyên sâu, hoặc thu hút các nhà khoa học của nhiều ngành, nhiều cơ quan, nhiều quốc gia khác nhau để tập trung trí tuệ và sức lực giải quyết một vấn đề có tính liên ngành, từ đó có thể tiếp cận trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Thông qua nhóm nghiên cứu tăng cường công bố quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo tiến sĩ, nâng cao chất lượng đội ngũ. Các nhóm nghiên cứu làm nên những trường phái khoa học của các trường đại học.

Cũng từ kinh nghiệm của các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc,  Trung Quốc và các nước có tiềm lực KHCN mạnh và phát triển rất nhanh, cho thấy nhóm nghiên cứu mạnh là một trong những phương thức để từ đó hình thành nhà khoa học đầu ngành.

Nhóm nghiên cứu mạnh là nòng cốt cho việc xây dựng và thực hiện các mũi nhọn nghiên cứu, cho ra đời các sản phẩm nghiên cứu cụ thể, mang tính trường phái. Do vậy, một mặt, nhóm nghiên cứu mạnh vừa là môi trường để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và các nhà khoa học đầu ngành; mặt khác, nhóm nghiên cứu mạnh cũng chính là “tổ ấm” – là môi trường để thu hút các nhà khoa học đầu ngành và các nhân tài trong và ngoài nước đến làm việc.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Nhóm nghiên cứu có vai trò cực kỳ quan trọng từ triển khai nghiên cứu đến đào tạo, chế thử, kết nối nhà khoa học với Nhà nước, doanh nghiệp và là cái nôi thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế và sản phẩm mới, và còn là môi trường để thúc đẩy khởi nghiệp.

Nhóm nghiên cứu chính là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo trong nhà trường. Việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong trường đại học và có tính tất yếu. Nhóm nghiên cứu vừa là phương thức, vừa là mục tiêu phát triển của các trường đại học nghiên cứu tiên tiến trên thế giới, trong đó với Việt Nam không là ngoại lệ.

Vì vậy, để phát triển tiềm lực, nâng cao chất lượng hoạt động KHCN và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, để nguồn nhân lực và KHCN thực sự là “chiếc đũa thần” đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, thì xây dựng và phát triển được các nhóm nghiên cứu mạnh phải được xem như là một trong những giải pháp đòn bẩy đột phá.

Rất nhiều trường đại học, các viện nghiên cứu của Việt Nam đã nhận thức đầy đủ vai trò của NNC và chủ động có những chính sách của đơn vị để đầu tư cho nhóm nghiên cứu. Đặc biệt sự ra đời của Luật Khoa học công nghệ, cũng như Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ giáo dục và Đào tạo đã đặc biệt quan tâm và có chính sách phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh.

Tuy nhiên, đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh còn cầm chừng và nhỏ giọt, một số chính sách còn chưa thông thoáng và chưa đi được vào cuộc sống, và vì vậy chưa thực sự tạo nên đột phá.

Chính vì vậy, tôi mong muốn Đại hội lần này, Đảng và Nhà nước sẽ thực sự chú trọng và quan tâm hơn nữa, có những chủ trương và chính sách mạnh hơn nữa, đầu tư thỏa đáng hơn nữa với các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để từ đó làm nên những cú húych tăng trưởng nhảy vọt trong hoạt động KHCN và giáo dục đại học của nước nhà.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội

KẾT QUẢ GIẢI BÓNG ĐÁ CTE CUP 2020-2021

GIẢI BÓNG ĐÁ CTE CUP 2020-2021
Sau những trận đấu vô cùng khắc nhiệt thì cuối cùng chúng mình đã tìm ra được đội bóng xứng đáng với danh hiệu “Nhà vô địch” của giải đấu năm nay. Không ai khác đó là Đội K64_1.
‍♀️ Kết quả giải đấu như sau:
Vô Địch: K64_1
Giải nhì: K63
Giải ba: K65_1
Giải tư: K64_2
Giải triển vọng: K64_3
‍♀️ Vua phá lưới: Vũ Xuân Trường.
Và cuối cùng xin cảm ơn đến tất cả các đội bóng, đội cổ vũ, khán giả, trọng tài, các thầy cô đã đến và tham gia ” Giải đấu bóng đá CTE CUP 2020-2021″. Chúng ta đã có những buổi giao lưu nhiệt huyết, những bàn thắng đẹp mắt, những lời động viên từ đồng đội… Tất cả những điều đấy đã làm nên sự đặc biệt của giải đấu. Các đội bóng đã thi đấu hết mình, các bạn đều là những nhà vô địch trong lòng người xem, người hâm mộ. BTC xin kính chúc toàn thể các bạn sinh viên một mùa đông ấm áp, một kỳ thi vui vẻ, và một cái tết trọn vẹn.
Hình ảnh có thể có: 14 người, mọi người đang đứng và ngoài trời
Hình ảnh có thể có: 11 người, mọi người đang đứng và ngoài trời
Hình ảnh có thể có: 13 người, ngoài trời
Hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang đứng và ngoài trời
Hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang đứng và ngoài trời