Sáp nhập đại học: Không nên “ghép cơ học” mà tái cấu trúc chiến lược để hình thành đại học mạnh

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng, sáp nhập không phải là “ghép cơ học” mà là tái cấu trúc chiến lược để hình thành những đại học mạnh, liên ngành, tự chủ, có trách nhiệm giải trình cao.

Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp nhằm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo được nhấn mạnh tại Nghị quyết là triển khai sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn; xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả.

Tại Hội nghị Giáo dục đại học, do Bộ GD-ĐT vừa qua, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn cũng nhấn mạnh việc chúng ta đang chuẩn bị một “cuộc đại sắp xếp” các cơ sở giáo dục đại học. Việc tái cấu trúc, sắp xếp sẽ thực hiện bằng tinh thần quyết tâm cao độ.

Thời cơ chưa từng có để chúng ta mạnh dạn cải tổ lại hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, việc sáp nhập các trường đại học hiện nay xuất phát từ yêu cầu cần tập trung nguồn lực để giáo dục đại học Việt Nam có những phát triển đột phá và cất cánh trong kỷ nguyên mới, với những kỳ vọng lớn lao về khoa học công nghệ và giáo dục đại học của Việt Nam.

Sáp nhập sẽ giúp tránh dàn trải, trùng lặp ngành/chương trình, đặc biệt ở những cơ sở quy mô nhỏ, hiệu quả thấp, đồng thời góp phần nâng tầm cạnh tranh quốc tế.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội

“Từ việc sáp nhập này sẽ hình thành các trường đại học đa ngành quy mô đủ lớn, có hệ sinh thái nghiên cứu-đổi mới, tăng cơ hội vào các bảng xếp hạng và thu hút học giả, sinh viên quốc tế”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay.

Theo ông, sáp nhập cũng sẽ thúc đẩy tự chủ và trách nhiệm giải trình: mô hình ít đầu mối giúp hoạch định chiến lược, tài chính, nhân sự đồng bộ hơn, gắn KPI minh bạch. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, việc sáp nhập giúp thuận lợi trong việc chuyển đổi số – liên ngành: kết hợp năng lực số, dữ liệu, phòng thí nghiệm, thư viện, để giải quyết các bài toán liên ngành (AI–VLKT-y sinh-môi trường…).

Sáp nhập theo nghị quyết 71/TW cũng phục vụ phát triển vùng/ngành: sắp xếp mạng lưới giáo dục đại học để mỗi đại học có “sứ mệnh” rõ ràng với địa phương/ngành mũi nhọn.

“Vì vậy, tôi cho rằng đây là thời điểm chín muồi, là thời cơ chưa từng có để chúng ta mạnh dạn cải tổ lại hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, cũng như tập trung phát triển khoa học công nghệ và tăng cường chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, là một trong những biện pháp hiệu quả và thiết thực để góp phần thực hiện thành công nghị quyết 71 và nghị quyết 57/TW”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.

Tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động

Liên quan đến những lợi ích về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học khi tiến hành sáp nhập các trường đại học, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, suy cho cùng mục đích cao nhất của việc sáp nhập, cải tổ chính là nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường đại học, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu; nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị của các trường đại học.

Cụ thể, về đào tạo sẽ giúp chuẩn chương trình thống nhất, chia sẻ học liệu – giảng viên giỏi, mở ngành liên ngành; tăng học phần chọn, tín chỉ linh hoạt giữa các trường thành viên.

Về nghiên cứu, thông qua sáp nhập tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ của các trường; hợp lực nhóm mạnh, dùng chung phòng thí nghiệm/thiết bị; tăng công bố và thuận lợi hơn khi triển khai các đề tài lớn; dễ thành lập trung tâm xuất sắc (CoE), doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Đồng thời, tăng năng lực cạnh tranh cho trường đại học sau khi sáp nhập: quy mô lớn hơn, thương hiệu lớn, một đầu mối đối ngoại – hợp tác – xếp hạng, tăng khả năng gọi tài trợ, học bổng, dự án quốc tế.

Về quản trị – nguồn lực, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đánh giá việc sáp nhập sẽ cắt bỏ các lớp trung gian; sử dụng nguồn lực chung, cả những nguồn lực hữu hình (con người, cơ sở vật chất, thiết bị) và vô hình. Bên cạnh đó, gom mua sắm, cải thiện dịch vụ, hạ tầng IT; giảm chi phí cố định; dữ liệu quản trị tập trung.

Sinh viên một trường đại học tại Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Liên

Cần thống nhất nguyên tắc xử lý: “không ai bị bỏ lại phía sau”

Hiện nay, một số ý kiến lo ngại việc sáp nhập sẽ dẫn đến xáo trộn tổ chức, ảnh hưởng đến quyền lợi của giảng viên, sinh viên.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhìn nhận, những băn khoăn lo ngại này là tâm lý chung khi sáp nhập và có cơ sở như: lo ngại thay đổi cơ cấu, vị trí việc làm, thói quen, thu nhập; điều chuyển nhiệm vụ, chuẩn đánh giá mới; mức độ hòa hợp và hội nhập về văn hóa truyền thống của các trường sau khi sáp nhập.

Để hóa giải những lo ngại này và làm tốt công tác sáp nhập, ông cho rằng cần thống nhất nguyên tắc xử lý: “không ai bị bỏ lại phía sau”, cùng với sự minh bạch và phân chia theo từng giai đoạn.

Sau sáp nhập, tái cấu trúc, các trường cần khẩn trương xây dựng lại vị trí việc làm, mô tả chức năng, tiêu chuẩn học thuật. Đồng thời, thiết lập cơ chế đánh giá cũng như điều chỉnh độc lập, công khai và minh bạch; đặc biệt là cơ chế tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ (phải lường được những tình huống khá phức tạp như có trường đã tự chủ sáp nhập vào trường chưa tự chủ và ngược lại).

“Các trường đại học là môi trường học thuật, nên sáp nhập khác với doanh nghiệp và các cơ quan hành chính. Vì vậy, với giảng viên cần tôn trọng thâm niên, thành tích và trong sự thống nhất, chấp nhận cả sự khác biệt. Chúng ta cũng cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với nâng chuẩn, hỗ trợ nghiên cứu; giữ ổn định thu nhập trong thời gian chuyển tiếp”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đề xuất.

Với sinh viên, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, cần bảo toàn quyền lợi học tập, ví dụ khung chương trình đang đào tạo, số tín chỉ, bảo toàn học phí đang thực hiện,… và có kế hoạch từng bước thống nhất chuẩn chương trình đào tạo sau sáp nhập.

Đặc biệt, cần đẩy mạnh truyền thông, tham vấn, đối thoại thường xuyên để mọi khúc mắc đều được kịp thời xem xét và giải quyết, đảm bảo đoàn kết nội bộ. Từ đó, xây dựng Chiến lược phát triển mới cho trường đại học sau sáp nhập.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh tinh thần chung: sáp nhập không phải là “ghép cơ học” mà là tái cấu trúc chiến lược để hình thành những đại học mạnh, liên ngành, tự chủ, có trách nhiệm giải trình cao.

“Thành công của cuộc “cải tổ” này phụ thuộc vào thiết kế thể chế, mô hình quản trị, dữ liệu minh bạch, lộ trình nhân văn và cam kết đặt chất lượng – con người – sứ mệnh quốc gia ở vị trí trung tâm”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nói.

Ngày 21/9, Ban Chỉ đạo của Chính phủ ban hành Kế hoạch về sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bên trong hệ thống hành chính nhà nước.

Theo Kế hoạch này, Việt Nam sẽ xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh đó, sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học. Sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn. Xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả. Nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với các cơ sở giáo dục đại học, chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý.

Ngày 18/9, phát biểu tại Hội nghị Giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, việc tái cấu trúc sắp xếp các cơ sở giáo dục đại học sẽ thực hiện bằng tinh thần quyết tâm cao độ.

Về việc các cơ sở giáo dục sẽ phải sắp xếp như thế nào để giảm đầu mối, Bộ trưởng cho biết, với các trường ngoài công lập sẽ tự giải quyết; các cơ sở giáo dục khối công an, quân đội về cơ bản sẽ do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện. Trừ đi các số này, hiện còn tổng cộng khoảng 140 trường đại học công lập.

“Sẽ không công bố con số sẽ giảm bao nhiêu hoặc còn lại bao nhiêu phần trăm nhưng chắc chắn sẽ giảm sâu trong thời gian tới. Kịch bản phía trước sẽ có nhiều phương án diễn ra. Có thể các trường thuộc khối Trung ương quản lý sẽ về địa phương quản lý. Có thể trường thuộc khối địa phương nhập về khối Trung ương. Có thể trường khối Trung ương nhập vào nhau hoặc một số trường sẽ giải tán nếu quy mô quá nhỏ, các tiêu chuẩn không đáp ứng. Đặc biệt, các số trường gần nhau về lĩnh vực sẽ nhập vào để khắc phục tình trạng manh mún nhỏ lẻ và không phát triển được. Ban chỉ đạo của Bộ GD-ĐT sẽ lên phương án, báo cáo Thủ tướng sau đó triển khai”, Bộ trưởng cho hay.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, tương tự công cuộc sắp xếp lại các tỉnh thành, việc sắp xếp lại các cơ sở giáo dục chắc chắn phải thực hiện. Việc tái cấu trúc, sắp xếp các đầu mối của các trường hệ thống công lập sẽ thực hiện bằng hình thức lên kế hoạch, yêu cầu thực thi; tuy nhiên phải có tính toán để làm sao sau khi tái cấu trúc làm các trường sẽ mạnh lên, không phải cốt để giảm đầu mối

Thậm chí, có trường chưa phải trường lớn, nhưng xét về địa chính trị, vị trí thì vẫn giữ lại và buộc trường phải “lớn càng nhanh càng tốt”.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Làm khoa học cần có tố chất của đại bàng

Các thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh luôn được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức kể câu chuyện chim đại bàng – chúa tể bầu trời, thể hiện khát khao chinh phục đỉnh cao khoa học của người làm nghiên cứu.

Trong bối cảnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang trở thành động lực then chốt của mọi quốc gia, Việt Nam chúng ta đứng trước thời cơ vàng: nếu dám nghĩ lớn, làm thật, đầu tư “tới tầm và xứng tầm”, biết kết nối sức mạnh của trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách công nghệ, chinh phục những lĩnh vực lõi và khẳng định vị thế trên bản đồ tri thức thế giới. Gặp gỡ GS. TSKH Nguyễn Đình Đức (Trường ĐH Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) 7 năm liên tiếp trong danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.

GS Nguyễn Đình Đức, dấu ấn nhà khoa học Việt lọt top 10.000 thế giới

Với hơn 40 năm cống hiến cho nghiên cứu vật liệu và kết cấu tiên tiến, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tiếp tục khẳng định vị thế khoa học Việt trên bản đồ quốc tế

Ngày 19/9/2025, Tạp chí PLoS Biology (Hoa Kỳ) công bố bảng xếp hạng thường niên các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, được xây dựng bởi nhóm chuyên gia Đại học Stanford (Mỹ) dựa trên cơ sở dữ liệu Scopus.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm việc với các sinh viên trong nhóm nghiên cứu. Ảnh: NVCC.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường, đã vươn lên xếp hạng 51 trong lĩnh vực Engineering của thế giới.

Đặc biệt, đây là năm thứ 7 liên tiếp (2019–2025), GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được ghi nhận trong bảng xếp hạng này, khẳng định sự bền bỉ, nỗ lực nghiên cứu không ngừng nghỉ và vị thế học thuật ngày càng vững chắc của GS trong cộng đồng khoa học quốc tế.

NGƯỜI TIÊN PHONG NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU, KẾT CẤU TIÊN TIẾN CỦA VIỆT NAM

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong những nhà khoa học tiêu biểu hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu, kết cấu tiên tiến và composite, với hơn 40 năm nghiên cứu và giáo dục.

GS Nguyễn Đình Đức báo cáo tại Phiên toàn thể Hội nghị quốc tế tại ĐH Yonsei, Hàn Quốc. Ảnh: NVCC.

Một trong những đóng góp nổi bật của ông là công trình nghiên cứu về vật liệu composite ba pha carbon-carbon có cấu trúc không gian 3D/4D, vừa siêu nhẹ, vừa siêu bền cơ học và siêu chịu nhiệt. Đây là loại vật liệu chiến lược được ứng dụng trong nhiều ngành như hàng không, hàng hải, quốc phòng, ứng dụng trong công nghệ đóng tàu và các sản phẩm dân dụng.

Ông cũng là người tiên phong nghiên cứu các vật liệu chức năng có cơ tính biến đổi (FGM – Functionally Graded Materials), vật liệu nano composite, auxetic (có hệ số Poisson âm), pentagraphene và các loại vật liệu thông minh, phù hợp với điều kiện chịu nhiệt cao, chịu môi trường khắc nghiệt. Các hướng này đặt ông vào vị trí dẫn đầu các nghiên cứu tiên tiến mà nhiều nước phát triển đang theo đuổi.

Về công bố khoa học, GS Đức đã công bố khoảng 400 công trình khoa học, trong đó hơn 200-250 bài đăng trên các tạp chí quốc tế ISI/SCI/SCIE. Chỉ riêng giai đoạn 2020-2025, ông là tác giả của nhiều bài ISI thuộc nhóm Q1, Q2; nhiều bài thuộc top 5% tạp chí ISI toàn cầu.

Một thành tựu ứng dụng đáng chú ý là bằng sáng chế về composite ba pha có sợi thủy tinh và các hạt nano, được sử dụng thành công để chống thấm đà máy tàu thủy. Việc này không chỉ mang lại giá trị thực tiễn, mà còn có giá trị kinh tế cao.

Bên cạnh nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức còn là người xây dựng mô hình đào tạo và nghiên cứu mạnh mẽ. Ông sáng lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN), khởi xướng chương trình đào tạo kỹ thuật xây dựng (Civil Engineering) thạc sĩ tại Trường Đại học Việt Nhật (VJU). Ông cũng là người hướng dẫn nhiều tiến sĩ, thu hút học viên cao học và nghiên cứu sinh trong và ngoài nước tham gia các đề tài nghiên cứu tiên tiến.

Với những đóng góp đó, tên tuổi GS Đức đã được quốc tế ghi nhận: liên tục nằm trong danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới (do PLoS Biology công bố), và được xếp hạng cao trong lĩnh vực Kỹ thuật & Công nghệ.

“ĐÃ LÀM KHOA HỌC LÀ PHẢI DÁM CHẤP NHẬN HY SINH VÀ THIỆT THÒI”

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ rằng, con đường đến với khoa học của ông trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn và thử thách. Những thành tựu đạt được hôm nay là kết quả của lòng kiên trì, nghị lực bền bỉ cùng với sự đồng hành, ủng hộ của nhà trường và đồng nghiệp.

Điều khiến ông cảm thấy tự hào nhất là đã gây dựng được một nhóm nghiên cứu mạnh, thành lập các phòng thí nghiệm, khoa và ngành đào tạo mới tại nhiều trường đại học. Tiêu biểu là Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông thuộc Trường Đại học Công nghệ, hay ngành Civil Engineering tại Trường Đại học Việt Nhật.

Từ những nền tảng này, ông đã góp phần hình thành và phát triển trường phái khoa học về vật liệu composite tiên tiến, tạo được uy tín tại Đại học Quốc gia Hà Nội và được cộng đồng khoa học trong nước, quốc tế ghi nhận.

Hơn hết, trên cương vị một nhà giáo, ông đã đào tạo và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ học trò giỏi giang, thành đạt, trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

GS Nguyễn Đình Đức cũng nhận định rằng, thế hệ các nhà khoa học trẻ ngày nay có nhiều thuận lợi hơn so với trước đây: được đào tạo bài bản, có điều kiện tu nghiệp và bồi dưỡng ở nước ngoài, với khả năng hội nhập quốc tế cao. Ông nhắn nhủ: “Tôi luôn mong các bạn trẻ có sự kiên trì và bền bỉ, không chạy theo hư danh. Đã làm khoa học là phải dám chấp nhận hy sinh và thiệt thòi”

Chia sẻ về việc được ghi nhận trong bảng xếp hạng năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, ông và các nhà khoa học không làm việc vì mục tiêu thứ hạng, nhưng sự xuất hiện trong bảng xếp hạng quốc tế vẫn là sự ghi nhận khách quan, công bằng và có ý nghĩa động viên lớn.

Điều quan trọng hơn là bảng xếp hạng là nguồn động viên lớn, tiếp thêm niềm tin và khát vọng cho các thế hệ học trò và các nhà khoa học trẻ tiếp tục dấn thân, hội nhập và chinh phục đỉnh cao tri thức.

Tiểu sử

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sinh năm 1963 tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội). Từ những năm còn đi học, ông đã sớm bộc lộ tư chất thông minh và năng lực học tập vượt trội.

Năm 1984, ông tốt nghiệp thủ khoa Khoa Toán – Cơ, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Một năm sau, ông tham gia kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh đi nước ngoài do Bộ Đại học tổ chức và xuất sắc giành vị trí thủ khoa với số điểm cao nhất.

Từ năm 1985, ông được cử sang Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov để thực hiện nghiên cứu sinh. Năm 1991, khi mới 28 tuổi, ông bảo vệ thành công xuất sắc luận án Tiến sĩ Toán – Lý. Sáu năm sau, năm 1997, ở tuổi 34, ông tiếp tục bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga – một cột mốc quan trọng khẳng định tài năng và bản lĩnh khoa học.

Với thành tích nổi bật này, ông từng được Trường Đại học Clemson (Hoa Kỳ) mời sang làm trợ giảng. Thay vì chọn con đường lập nghiệp ở nước ngoài, GS Nguyễn Đình Đức quyết định trở về Việt Nam, với mong muốn góp phần xây dựng ngành khoa học composite còn non trẻ, đồng thời đào tạo và truyền lửa cho thế hệ trí thức trẻ trong nước.

Theo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Hai nhà khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục lọt vào top 10.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025

Mới đây, Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ vừa công bố danh sách xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới. Có 9 nhà khoa học Việt Nam công tác tại các trường đại học trong nước, trong đó có 2 nhà khoa học của ĐHQGHN nằm trong nhóm 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới, đó là GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường ĐH Công nghệ được xếp thứ 5.750 và GS.TS Trần Xuân Bách, Trường ĐH Y Dược được xếp thứ 5.085. Đây cũng là 2 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong 7 năm liên tiếp từ 2019 đến nay.

GS.TS Trần Xuân Bách (trái) được xếp thứ 5.085 và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được xếp thứ 5.750 trong bảng xếp hạng của Tạp chí PLoS

Danh sách này được xây dựng bởi nhóm các nhà khoa học của Đại học Stanford (Mỹ), dựa trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus. Cách đánh giá của các chuyên gia dựa trên các chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học: tổng số trích dẫn (không bao gồm tự trích dẫn), chỉ số Hirsch h-index, chỉ số Schreiber hm-index, số trích dẫn cho các bài báo với tư cách tác giả duy nhất (single author), tác giả chính (first author, corresponding author) và tác giả cuối cùng (last author).
Kết quả này được cập nhật từ cơ sở dữ liệu của hơn 7 triệu nhà khoa học được trích dẫn từ nguồn dữ liệu của Scopus. Danh sách được phân loại thành 22 lĩnh vực khoa học và 174 lĩnh vực con theo chuẩn phân loại Science-Metrix.
Nếu một nhà khoa học có tên trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu theo xếp hạng Stanford – Elsevier năm 2025, điều đó có nghĩa là lĩnh vực của họ đang có ảnh hưởng rất lớn, được nhiều đồng nghiệp trên thế giới tham khảo và đánh giá cao vì tính quan trọng và hữu ích trong lĩnh vực nghiên cứu.
Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã vươn lên xếp hạng 51 trong lĩnh vực Engineering, GS.TS Trần Xuân Bách xếp hạng 113 trong y tế cộng đồng.
Những kết quả đáng tự hào này một lần nữa tiếp tục khẳng định vị thế của các nhà khoa học của ĐHQGHN được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với trình độ và các hương nghiên cứu tiên tiến của thế giới. 
Nguồn: https://elsevier.digitalcommonsdata.com/datasets/btchxktzyw/8

NHỮNG ĐIỂM ĐỔI MỚI RẤT MẠNH DẠN VÀ QUYẾT LIỆT TRONG NGHỊ QUYẾT SỐ 71-NQ/TW

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Ông kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ đưa giáo dục Việt Nam, giáo dục đại học Việt Nam “cất cánh”.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết 71 được ví như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam. Văn kiện đặt mục tiêu đến năm 2035 có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học lọt top 100 thế giới, bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các trường, ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho đội ngũ nhà giáo. Đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và ứng dụng AI có trách nhiệm trong giảng dạy, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho khát vọng phát triển đất nước đến 2045.

Những điểm mới, đột phá nhất của Nghị quyết số 71-NQ/TW

Thưa Giáo sư, Nghị quyết số 71-NQ/TW  của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạođược coi là một “cột mốc chiến lược” cho giáo dục Việt Nam, kế thừa và phát triển từ Nghị quyết 29. Ông đánh giá đâu là điểm mới đột phá nhất trong văn kiện lần này?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhận thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những thay đổi. Nghị quyết chỉ ra rất rõ để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. 

Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì quản lý, phải kiến tạo, với những cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo và sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Nghị quyết số 71-NQ/TW sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Từ Nghị quyết này có thể thấy Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng lớn lao cho giáo dục và đào tạo: Đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.

Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, nhất trí và đồng tình, đánh giá cao chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học của Nghị quyết. 

Như tôi đã từng phát biểu, tri thức và các công cao xuất phát từ các nhà khoa học, từ các phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, do đó giáo dục đại học có ý nghĩa rất quan trọng trọng việc thúc đẩy thực hiện thành công nghị quyết 57. Nghị quyết 57 không thể thành công như mong đợi nếu giáo dục đại học Việt Nam không đổi mới và cất cánh.

Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. 

Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. 

Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học. Tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, một số hạn chế kìm hãm và ràng buộc. 

Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết, và Nghị quyết 71-NQ/TW này thực sự sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học.

Thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học

Nghị quyết 71-NQ/TW cũng thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học tới tầm và vượt trội; thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên và hỗ trợ tài chính và tạo cơ hội học tập cho mọi người.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 71-NQ/TW cũng cộng hướng với Nghị quyết 57, quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới – đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới để trở thành nòng cột và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Nghị quyết 71-NQ/TW cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường. 

Đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ hiện đại và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. 

Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội.

Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo là sự quan tâm thiết thực của Đảng

Nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn đối với đội ngũ nhà giáo

Một cam kết rất mạnh mẽ trong Nghị quyết là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo Giáo sư, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo trong thời gian tới?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Có thực mới vực được đạo”, việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục. 

Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được “trường ra trường, lớp ra lớp”. 

Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.

Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.

Những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn sinh viên Pháp sang Việt Nam thực tập

Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên giỏi giang và ưu tú

Lần đầu tiên, Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Với kinh nghiệm quản lý và nghiên cứu của mình, Giáo sư cho rằng chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện gì để biến mục tiêu này thành hiện thực?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực KHCN trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. 

Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự chín về thời gian.

Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế, với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng trường có lĩnh vực KHTN, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.

Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể – các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.

Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện

Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. 

Bài học về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là một bài học quý. Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và Đại học Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới. Sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. 

Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. 

Khoán 100, khoán 10 trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71 chính là “khoán 10”, “khoán 100” trong giáo dục đại học.

Nghị quyết 71-NQ/TW chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiện, kỹ thuât, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại. 

Tôi cho rằng nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới.

Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á

Phổ cập tiếng Anh và sử dụng AI là hết sức cần thiết 

Nghị quyết cũng nhấn mạnh đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và tích hợp chuẩn năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục. Theo Giáo sư, đâu là cơ hội và thách thức khi triển khai những yêu cầu mới này trong hệ thống phổ thông và đại học?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là chủ trương rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Năm 2024, giải Nobel Vật lý đã được trao cho 2 giáo sư: John J. Hopfield (Mỹ) và Geoffrey E. Hinton (Canada), những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực máy học và mạng lưới thần kinh nhân tạo, những nền tảng cho công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đại. 

Công trình của họ đã tạo ra các phương pháp để máy móc học và xử lý thông tin, mở đường cho sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ngày nay. 

Cũng trong năm 2024, nhà hóa học Mỹ David Baker đoạt giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu, phát triển một công cụ dự đoán protein do AI điều khiển tên RoseTTAFold. 

Trong khi đó, Demis Hassabis và John M. Jumper đoạt giải Nobel 2024 do đã phát triển thành công một hệ thống AI giải quyết được bài toán dự đoán cấu trúc protein làm đau đầu giới khoa học suốt 50 năm nay. 

Những thông tin trên, cùng với sự ra đời của siêu trí tuệ nhân tạo (AGI – là những hệ thống có thể học mọi tri thức, có nhận thức, vượt qua trí thông minh của con người) và sự hiện diện của AI trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, cho thấy AI đã trở thành công nghệ lõi mũi nhọn, hết sức cần thiết phải đưa AI vào trong nhà trường.

Và hơn thế, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam phải có chiến lược để tiên phong nghiên cứu và phát triển, làm chủ một số công nghệ AI phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Việc phổ cập tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2, cũng như chuyển đổi số và sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong nhà trường ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là chín muồi và hết sức cần thiết để giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập. 

Được trang bị những hành trang này ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường cho đến giảng đường đại học, cùng với nền tảng kiến thức STEM, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh rất tốt, có cơ hội làm việc trong bất cứ môi trường nào, trong nước cũng các tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia cũng như tạo cho Việt Nam lợi thế thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài.

Sau nhiều năm thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, năng lực tiếng Anh của học sinh Việt Nam có cải thiện đáng kể. Tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy năm 2023, 2024 vẫn có gần nửa triệu bài thi, chiếm 44% (2023) và 42% (2024) số lượng thí sinh dự thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình. 

Năm 2025 môn tiếng Anh được tự chọn, nhưng vẫn có đến 38% số thí sinh chọn thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình. Như vậy là xuất phát điểm việc dạy và học tiếng Anh trong các trường phổ thông của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp.

Với số lượng giáo viên tiếng Anh cũng có hạn, biên chế sinh viên trong lớp học của ta còn lớn, có lớp lên đến 45-50 học sinh thì giáo viên tiếng Anh sẽ bị quá tải. Do đó việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc dạy và học tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng. 

AI hỗ trợ giáo viên tiếng Anh chấm nói, chấm viết, soạn bài giảng, đánh giá tổng thể năng lực từng học sinh. AI hỗ trợ người học luyện nói, luyện viết cũng như cả 4 kỹ năng. 

Và các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam cần vào cuộc để hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ứng dụng AI trong dạy, học, và cấp bách là trong việc dạy và học tiếng Anh.

Bên cạnh đó, là chương trình, giáo trình và bài giảng. Để tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, thì không chỉ dạy môn tiếng Anh để thi IELTS, mà còn phải có chương trình, giáo trình, bài giảng và giáo viên dạy các môn chuyên môn như toán, lý, hóa… bằng tiếng Anh.

Còn với việc đưa AI vào như môn học, như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập trong nhà trường, cũng đối mặt với việc cần xây dựng chương trình, giáo trình và các quy định chuẩn mực trách nhiệm và đạo đức, liêm chính trong việc sử dụng AI phù hợp với các bậc học và chuẩn bị đội ngũ giáo viên.

Tóm lại, những chủ trương, đường lối của Nghị quyết 71-NQ/TW về tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, và về chuyển đổi số và sử dụng AI trong nhà trường là hoàn toàn đúng đắn và bắt kịp với xu thế của thời đại. 

Để thực hiện được những nội dung trên, chúng ta phải nắm rất rõ thực trạng, để có giải pháp đúng, hiệu quả, và quan trọng nhất là phải có chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo và quyết tâm rất lớn của ngành giáo dục, có đầu tư bài bản và sự đồng hành của học sinh, phụ huynh, các doanh nghiệp và toàn xã hội với nhà trường và ngành giáo dục.

Nghị quyết 71-NQ/TW: Cải tổ giáo dục Việt Nam, đưa giáo dục đại học ‘cất cánh’

Về dài hạn, Giáo sư kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong hành trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đích cuối cùng của Nghị quyết 71-NQ/TW và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật – nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”, có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân. 

Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.

Tôi cho rằng Nghị quyết 71-NQ/TW là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045./.

Nghị quyết 71 – “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Công nghệ (ĐHQGHN) khẳng định Nghị quyết 71- NQ/TW là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam. Văn kiện đặt mục tiêu đến năm 2035 có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học lọt top 100 thế giới, bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các trường, ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho đội ngũ nhà giáo, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và ứng dụng AI có trách nhiệm trong giảng dạy, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho khát vọng phát triển đất nước đến 2045.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết 71 được ví như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Thưa Giáo sư, Nghị quyết 71 được coi là một “cột mốc chiến lược” cho giáo dục Việt Nam, kế thừa và phát triển từ Nghị quyết 29. Ông đánh giá đâu là điểm mới đột phá nhất trong văn kiện lần này?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhân thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những thay đổi. Nghị quyết chỉ ra rất rõ để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì quản lý, phải kiến tạo, với những cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo và sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Từ Nghị quyết này có thể thấy Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng lớn lao cho giáo dục và đào tạo: Đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.

Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, nhất trí và đồng tình, đánh giá cao chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học của Nghị quyết. Như tôi đã từng phát biểu, tri thức và các công nghệ cao xuất phát từ các nhà khoa học, từ các phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, do đó giáo dục đại học có ý nghĩa rất quan trọng trọng việc thúc đẩy thực hiện thành công nghị quyết 57. Nghị quyết 57 không thể thành công như mong đợi nếu giáo dục đại học Việt Nam không đổi mới và cất cánh.

Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học, tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, một số hạn chế kìm hãm và ràng buộc. 

Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết, và Nghị quyết 71 này thực sự sẽ là khoán 10 trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học.

Nghị quyết này cũng thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học tới tầm và vượt trội; thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên và hỗ trợ tài chính và tạo cơ hội học tập cho mọi người.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng cộng hướng với Nghị quyết 57, quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới – đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới để trở thành nòng cột và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam; Nghị quyết cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ hiện đại và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. 

Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội. 

Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo là sự quan tâm thiết thực của Đảng

Một cam kết rất mạnh mẽ trong Nghị quyết là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo Giáo sư, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo trong thời gian tới?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Có thực mới vực được đạo”, việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục. Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được “trường ra trường, lớp ra lớp”. Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.

Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.

Những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam. 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn sinh viên Pháp sang Việt Nam thực tập

Lần đầu tiên, Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Với kinh nghiệm quản lý và nghiên cứu của mình, Giáo sư cho rằng chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện gì để biến mục tiêu này thành hiện thực?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực KHCN trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự chín về thời gian.

Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế, với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng trường có lĩnh vực KHTN, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.

Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể – các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.

Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. Bài học về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là một bài học quý: Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và ĐH Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới, sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. Khoán 100, khoán 10 trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71 chính là khoán 10, khoán 100 trong giáo dục đại học.

Nghị quyết 71 chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiện, kỹ thuât, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại. Tôi cho rằng nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới. 

Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á

Nghị quyết cũng nhấn mạnh đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và tích hợp chuẩn năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục. Theo Giáo sư, đâu là cơ hội và thách thức khi triển khai những yêu cầu mới này trong hệ thống phổ thông và đại học? 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là chủ trương rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Năm 2024, giải Nobel Vật lý đã được trao cho 2 giáo sư: John J. Hopfield (Mỹ) và Geoffrey E. Hinton (Canada), những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực máy học và mạng lưới thần kinh nhân tạo, những nền tảng cho công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đại. Công trình của họ đã tạo ra các phương pháp để máy móc học và xử lý thông tin, mở đường cho sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ngày nay. Cũng trong năm 2024, nhà hóa học Mỹ David Baker đoạt giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu, phát triển một công cụ dự đoán protein do AI điều khiển tên RoseTTAFold. Trong khi đó, Demis Hassabis và John M. Jumper đoạt giải Nobel 2024 do đã phát triển thành công một hệ thống AI giải quyết được bài toán dự đoán cấu trúc protein làm đau đầu giới khoa học suốt 50 năm nay. 

Những thông tin trên, cùng với sự ra đời của siêu trí tuệ nhân tạo (AGI – là những hệ thống có thể học mọi tri thức, có nhận thức, vượt qua trí thông minh của con người) và sự hiện diện của AI trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, cho thấy AI đã trở thành công nghệ lõi mũi nhọn, hết sức cần thiết phải đưa AI vào trong nhà trường, và hơn thế, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam phải có chiến lược để tiên phong nghiên cứu và phát triển, làm chủ một số công nghệ AI phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Việc phổ cập tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2, cũng như chuyển đổi số và sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong nhà trường ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là chín muồi và hết sức cần thiết để giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập. Được trang bị những hành trang này ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường cho đến giảng đường đại học, cùng với nền tảng kiến thức STEM, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh rất tốt, có cơ hội làm việc trong bất cứ môi trường nào, trong nước cũng các tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia cũng như tạo cho Việt Nam lợi thế thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài.

Sau nhiều năm thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, năng lực tiếng Anh của học sinh Việt Nam có cải thiện đáng kể, tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy năm 2023, 2024 vẫn có gần nửa triệu bài thi, chiếm 44% (2023) và 42% (2024) số lượng thí sinh dự thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình; năm 2025 môn tiếng Anh được tự chọn, nhưng vẫn có đến 38% số thí sinh chọn thi môn tiêng Anh có điểm dưới trung bình. Như vậy là xuất phát điểm việc dạy và học tiếng Anh trong các trường phổ thông của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp.

Với số lượng giáo viên tiếng Anh cũng có hạn, biên chế sinh viên trong lớp học của ta còn lớn, có lớp lên đến 45-50 học sinh thì giáo viên tiếng Anh sẽ bị quá tải, do đó việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc dạy và học tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng. AI hỗ trợ giáo viên tiếng Anh chấm nói, chấm viết, soạn bài giảng, đánh giá tổng thể năng lực từng học sinh. AI hỗ trợ người học luyện nói, luyện viết cũng như cả 4 kỹ năng. Và các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam cần vào cuộc để hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ứng dụng AI trong dạy và học, và cấp bách là trong việc dạy và học tiếng Anh.

Bên cạnh đó, là chương trình, giáo trình và bài giảng. Để tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, thì không chỉ dạy môn tiếng Anh để thi IELTS, mà còn phải có chương trình, giáo trình, bài giảng và giáo viên dạy các môn chuyên môn như toán, lý, hóa… bằng tiếng Anh.

Còn với việc đưa AI vào như môn học, như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập trong nhà trường, cũng đối mặt với việc cần xây dựng chương trình, giáo trình và các quy định chuẩn mực trách nhiệm và đạo đức, liêm chính trong việc sử dụng AI phù hợp với các bậc học và chuẩn bị đội ngũ giáo viên.

Tóm lại, những chủ trương, đường lối của Nghị quyết 71 về tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, và về chuyển đổi số và sử dụng AI trong nhà trường là hoàn toàn đúng đắn và bắt kịp với xu thế của thời đại. Để thực hiện được những nội dung trên, chúng ta phải nắm rất rõ thực trạng, để có giải pháp đúng, hiệu quả, và quan trọng nhất là phải có chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo và quyết tâm rất lớn của ngành giáo dục, có đầu tư bài bản và sự đồng hành của học sinh, phụ huynh, các doanh nghiệp và toàn xã hội với nhà trường và ngành giáo dục.

Về dài hạn, Giáo sư kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong hành trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đích cuối cùng của Nghị quyết 71, và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật – nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”, có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân. Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn; và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.

Tôi cho rằng Nghị quyết 71 là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57 về KHCN và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.

Nhóm nghiên cứu mạnh: Tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học

Việc hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại các cơ sở giáo dục đại học không chỉ là yêu cầu nội tại để nâng cao chất lượng đào tạo, mà còn là điểm tựa thúc đẩy khoa học công nghệ quốc gia phát triển bền vững, hiệu quả.

TS. Nguyễn Văn Thương từng công tác tại một Trường Đại học ở Đài Loan (Trung Quốc). Mới đây anh quyết định về đầu quân cho Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) và tham gia nhóm nghiên cứu mạnh của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.

Theo đuổi hướng nghiên cứu về Khoa học vật liệu, kết cấu tiên tiến, TS. Nguyễn Văn Thương cho biết, những nhà khoa trẻ như anh cần môi trường nghiên cứu cởi mở và có định hướng nghiên cứu rõ ràng.

“Trong lĩnh vực vật liệu kết cấu tiên tiến khi tham gia vào nhóm nghiên cứu mạnh sẽ có cơ hội tiếp cận với các hướng nghiên cứu hiện tại của Giáo sư, đồng thời có cơ hội mang kiến thức học ở nước ngoài để áp dụng, triển khai hướng dẫn nghiên cứu sinh, tham gia các đề tài cùng Giáo sư”, TS. Nguyễn Văn Thương chia sẻ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cùng nhóm nghiên cứu thảo luận đề tài (Ảnh: NVCC)

Một động lực để TS. Nguyễn Văn Thương về đầu quân cho Đại học công nghệ (ĐHQG Hà Nội) và tham gia nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vào đúng thời điểm cơ sở đào tạo này thực hiện chính sách thu hút nhân tài, nhà khoa học giỏi. Cơ sở đào tạo không chỉ đưa ra mức lương đủ mạnh mà còn tạo môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, hiện đại.

TS. Nguyễn Văn Thương nhấn mạnh, môi trường nghiên cứu rất quan trọng. Nhà khoa học khi về nước nếu có môi trường thông thoáng sẽ thỏa sức nghiên cứu.

“Tại thời điểm tôi về nước, trường Đại học Công nghệ đáp ứng đủ các yếu tố đó. Đặc biệt khi tham gia nhóm nghiên cứu mạnh của một GS uy tín sẽ định ra hướng nghiên cứu, dẫn dắt nhóm nghiên cứu, có cơ hội trao đổi chuyên môn với các nhà khoa học uy tín, các nghiên cứu sinh giỏi từ đó khám phá ra các đề tài khác. Bởi ngay trong nhóm nghiên cứu này mỗi người sẽ có hướng nghiên cứu khác nhau”, TS. Nguyễn Văn Thương nói.

Xây dựng nhóm nghiên cứu từ lúc… phòng họp cũng không có

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức không chỉ là nhà khoa học uy tín của ĐHQG Hà Nội mà còn trên thế giới. Ông có 6 năm liền lọt vào nhóm 10.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, và năm 2024 xếp thứ 74 thế giới trong lĩnh vực Kỹ thuật (Engineering).

Đến nay, Giáo sư Đức đã công bố 400 công trình khoa học, trong có gần 250 bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí khoa học có trong danh mục các tạp chí ISI. Nhóm nghiên cứu do ông dẫn dắt tại Trường Đại học Công nghệ (ĐHQG Hà Nội) hội tụ nhiều nhà khoa học trẻ, tài năng.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định, nhóm nghiên cứu mạnh là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo trong nhà trường. Có thể quy mô đào tạo lớn nhưng tầm vóc, vị thế của cơ sở đào tạo thường được khẳng định qua thành tựu nghiên cứu, qua tầm vóc của các nhà khoa học cũng như kết quả nghiên cứu khoa học.

“Nhóm nghiên cứu là môi trường để tích hợp giữa đào tạo gắn với nghiên cứu; nhóm nghiên cứu cũng là vườn ươm của những ý tưởng sáng tạo để khởi nghiệp”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nói.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (Ảnh: NVCC)

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã xây dựng nhóm nghiên cứu của mình từ hơn 20 năm trước khi các điều kiện nghiên cứu cho các giảng viên, nhà khoa học trẻ còn khó khăn, thiếu thốn. Thậm chí khi nhớ lại, ông cho biết đến phòng họp cho nhóm nghiên cứu cũng không có.

“Khi xây dựng nhóm nghiên cứu xuất phát từ khát khao phải tập hợp đội ngũ nhà khoa học, duy trì được sự nghiệp nghiên cứu. Giảng bài trên lớp nhưng phải thông qua nghiên cứu để nâng cao chất lượng đào tạo, cập nhật các thành tựu công nghệ thế giới. Thời điểm xây dựng nhóm còn không có chỗ làm việc, lúc ở giảng đường trống, lúc thì ở phòng làm việc, lúc ở quán trà đá…”, GS Đức nhớ lại.

Sau một thời gian kiên trì xây dựng, đến năm 2017 nhóm nghiên cứu mới được cấp một phòng nghiên cứu. Khi nhóm nghiên cứu có thành tựu, có công bố nghiên cứu, có nghiên cứu sinh tốt nghiệp… những khoản kinh phí đầu tiên (dù rất khiêm tốn) đã được cấp.

Ngoài các GS, TS đã thành danh, có thành tựu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Đình Đức hiện có hơn 10 nghiên cứu sinh cùng nhiều sinh viên vừa tốt nghiệp thủ khoa xuất sắc của các ngành đào tạo.

Nguyễn Văn Duy, thủ khoa đầu ra ngành Cơ kỹ thuật, Trường ĐH Công nghệ (ĐHQG Hà Nội) cho biết, ngay từ năm thứ 2 đại học đã tham gia nhóm nghiên cứu của GS.

“Khi tốt nghiệp em được công tác tại trường và tiếp tục tham gia nhóm nghiên cứu mạnh của GS. Khi tham gia nhóm nghiên cứu, các GS.TS định hướng con đường nghiên cứu và học thuật, tạo môi trường để mình cọ sát để tiếp tục theo đuổi con đường nghiên cứu chuyên sâu…”, thủ khoa đầu ra ngành Cơ kỹ thuật Nguyễn Văn Duy chia sẻ.

Hiện nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đang triển khai các đề tài nghiên cứu liên quan đến trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, ý tế, an toàn thông tin, mô hình hóa sử dụng AI để dự đoán kết cấu của vật liệu tiên tiến… đặc biệt, theo GS.TS Nguyễn Đình Đức, định hướng nghiên cứu của nhóm không chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản mà hướng đến thương mại hóa, khởi nghiệp sáng tạo.

Ông Đức khẳng định, hiện nay đã có cơ chế ưu tiên dành cho các nhóm nghiên cứu. Nếu như trước kia, kinh phí dành cho các đề tài nghiên cứu chỉ vài chục triệu thì nay đã nâng lên 200-300 triệu, thậm chí kinh phí lên đến tiền tỉ.

Hiện nay, Trường Đại học Công nghệ đã hình thành 6 nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG Hà Nội. Các nhóm nghiên cứu mạnh đang đang đẩy mạnh phát triển các sản phẩm khoa học đỉnh cao, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế và tham gia sâu hơn vào các dự án nghiên cứu quy mô lớn.

Tuy nhiên để thu hút các nhà khoa học giỏi về đầu quân cũng gây dựng được nhóm nghiên cứu mạnh theo GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng trường ĐH Công nghệ, ĐHQG Hà Nội đòi hỏi một cơ chế quản lý thông thoáng.

“Để thu hút nhà khoa học giỏi tham gia nhóm nghiên cứu mạnh, lương cao chỉ là một điều kiện. Điều quan trọng nhất vẫn là môi trường nghiên cứu. Ví dụ, các giảng viên, nhà khoa học phải được làm việc với các nhà khoa học, sinh viên tài năng, chính sách quản lý phải cởi mở, phân cấp tối đa cho các khoa, cho đến cấp trưởng nhóm nghiên cứu ….

Muốn đại học trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, cần có cơ chế đầu tư bài bản cho các nhóm nghiên cứu mạnh, dẫn dắt các hoạt động nghiên cứu, có những ý tưởng, công trình khoa học mang tính đột phá, đóng góp vào sự phát triển chung của khoa học công nghệ nước nhà.

Lễ ra mắt Câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo, Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo

Ngày 25/07/2025, Hội Sinh viên Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Lễ ra mắt Câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo và Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo. Đặc biệt, GS. Nguyễn Đình Đức là người đề xuất, sáng lập và giữ vai trò thủ lĩnh dẫn dắt hai CLB này. Sự kiện đánh dấu bước phát triển mới trong việc xây dựng môi trường học thuật và sáng tạo cho sinh viên, đồng thời góp phần khẳng định vai trò tiên phong của Nhà trường trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao.

Tham dự buổi lễ có GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông cùng đại diện Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên Nhà trường.

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, trí tuệ nhân tạo (AI) và thiết kế đồ họa đang dần trở thành những lĩnh vực then chốt thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện đại. Với mong muốn xây dựng cộng đồng sinh viên yêu thích và có khát vọng chinh phục hai lĩnh vực giàu tiềm năng này, Hội Sinh viên Trường ĐH Công nghệ chính thức thành lập hai câu lạc bộ học thuật mới: Câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence) và Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo (Innovation Space).

ThS Phan Hoàng Anh – Chủ tịch Hội Sinh viên, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên trao quyết định thành lập Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo (Innovation Space)

ThS Phan Hoàng Anh trao quyết định thành lập Câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence)

Hai câu lạc bộ sẽ là môi trường lý tưởng để sinh viên UET nói riêng và thế hệ trẻ nói chung được trau dồi kiến thức chuyên sâu, thực hành các dự án ứng dụng thực tiễn, đồng thời kết nối với mạng lưới chuyên gia, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đây cũng là bước đệm quan trọng để Nhà trường tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực AI và thiết kế – hai ngành có tốc độ phát triển nhanh và nhu cầu nhân lực lớn hiện nay.

Phát biểu tại buổi lễ, GS.TS Nguyễn Đình Đức – nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông, người đề xuất sáng kiến và hỗ trợ thành lập hai câu lạc bộ nhấn mạnh vai trò của AI và thiết kế trong bối cảnh hiện nay. Giáo sư chia sẻ về thế mạnh của ngành Thiết kế công nghiệp và đồ họa của UET có lợi thế riêng khi kết hợp nền tảng kỹ thuật công nghệ với yếu tố mỹ thuật sáng tạo. Đây là nền tảng để sinh viên phát huy tối đa năng lực, hướng tới trở thành những nhà thiết kế, tổng công trình sư và doanh nhân công nghệ trong tương lai.

Với câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo, Giáo sư cho rằng đây là lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều sinh viên vì AI là lĩnh vực có khả năng lan tỏa mạnh mẽ trong mọi mặt cuộc sống. Chính vì vậy, việc xây dựng một cộng đồng sinh viên yêu thích AI sẽ góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nhân lực công nghệ cao quốc gia.  

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông phát biểu khai mạc

Tại buổi lễ, ThS. Phan Hoàng Anh – Chủ tịch Hội Sinh viên, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Trường ĐH Công nghệ công bố các quyết định thành lập hai câu lạc bộ, nâng tổng số câu lạc bộ của Trường ĐH Công nghệ lên 22 câu lạc bộ, trong đó có 5 câu lạc bộ học thuật. Cũng tại đây, đại diện lãnh đạo Nhà trường đã trao quyết định thành lập và tặng 10 bảng vẽ Wacom cho CLB Thiết kế và sáng tạo nhằm hỗ trợ trang bị ban đầu cho hoạt động.

ThS Phan Hoàng Anh công bố các quyết định thành lập hai câu lạc bộ

GS.TS Chử Đức Trình và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trao 10 bảng vẽ Wacom cho Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo

Cũng tại buổi lễ ra mắt, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ chia sẻ niềm vui trước sự ra đời của hai câu lạc bộ, đồng thời đánh giá đây là minh chứng thể hiện sự phát triển vượt bậc của Trường ĐH Công nghệ. Đến nay, Nhà trường không chỉ làm chủ công nghệ thông tin truyền thông (ICT) mà đưa ICT trở thành nền tảng phát triển các ngành nghề.

Trong thời gian tới, Giáo sư hi vọng sinh viên cần nhận thức rõ vai trò chủ động của bản thân trong học tập, nghiên cứu và sáng tạo để tạo nền tảng thành công và phát huy vai trò dẫn dắt công nghệ. Hiệu trưởng cũng bày tỏ kỳ vọng hai câu lạc bộ sẽ trở thành hạt nhân gắn kết, hỗ trợ sinh viên phát triển ý tưởng, triển khai dự án và lan tỏa văn hóa học thuật, sáng tạo trong toàn Trường.

GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ phát biểu

Sự ra đời của Câu lạc bộ Trí tuệ nhân tạo và Câu lạc bộ Thiết kế và sáng tạo không chỉ là dấu mốc quan trọng trong hoạt động sinh viên của Trường ĐH Công nghệ, mà còn thể hiện rõ cam kết của Nhà trường trong việc đồng hành cùng sinh viên trên con đường phát triển toàn diện.

(UET-News)

GS Nguyễn Đình Đức: Bộ GD-ĐT nên lấy ý kiến sâu rộng về nghị quyết giáo dục

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức lấy ý kiến sâu rộng khi xây dựng dự thảo nghị quyết đột phá phát triển giáo dục để có tính thực tiễn và đồng thuận cao.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng Đề án trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (tương tự Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ).

Nghị quyết này không thay thế các Nghị quyết đã có, mà lựa chọn những vấn đề then chốt nhất, điểm nghẽn lớn hiện nay để tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ ràng, cụ thể trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

Đây là cơ hội lớn của ngành giáo dục để có những chính sách quan trọng tạo sự bứt phá. Phóng viên Báo điện tử VietnamPlus đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Khoa học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội về vấn đề này.

Ba điểm nghẽn giáo dục đại học

– Thưa Giáo sư, ông đánh giá như thế nào về chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc xây dựng Nghị quyết mới về phát triển giáo dục và đào tạo?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là một quyết định rất kịp thời và có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục – đào tạo, mà còn thể hiện rõ nhận thức rằng giáo dục là “quốc sách hàng đầu,” là nền tảng phát triển con người, trí tuệ quốc gia và sức mạnh nội sinh của đất nước. Đây cũng là mong mỏi, chờ đợi của ngành giáo dục, trong đó có tôi – một giáo sư của một đại học lớn nhất cả nước.

Việc xây dựng một nghị quyết mới – không thay thế các nghị quyết cũ mà tập trung vào các điểm nghẽn then chốt – cho thấy tinh thần đổi mới quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với thực tiễn và đặt mục tiêu tạo ra chuyển biến thật nhanh, cụ thể và rõ ràng. Nếu Nghị quyết số 57-NQ/TW là cú hích cho khoa học – công nghệ, thì nghị quyết về giáo dục lần này sẽ là sự thay đổi tư duy rất mạnh mẽ, tạo động lực bứt phá để nâng tầm và chất lượng nguồn nhân lực quốc gia.

– Theo Giáo sư, với giáo dục đại học, đâu là những vấn đề then chốt nhất, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Theo tôi, có ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay.

Một là chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ. Nguồn nhân lực giáo viên, giảng viên vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển như vũ bão và hội nhập quốc tế.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho rằng cần nhân sự là một trong những điểm nghẽn của giáo dục đại học hiện nay. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Hai là, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới. Vẫn còn tư duy hành chính, chưa tạo được môi trường thực sự tự chủ và năng động cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học.

Thực tiễn những năm gần đây cho thấy tự chủ đại học như “khoán 10” trong giáo dục, như luồng gió mới đã tạo động lực mạnh mẽ cho một số trường đại học phát triển rất nhanh và vượt bậc trong thời gian qua, nhưng việc tổng kết đánh giá thực tiễn còn chậm, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tự chủ đại học còn chưa kịp thời và đồng bộ.

Ba là chưa thực sự gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu xã hội, doanh nghiệp. Còn thiếu rất nhiều những chương trình “đặt hàng” từ doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kỹ năng nghề nghiệp thiết thực.

Các giải pháp đột phá

– Với các điểm nghẽn trên, theo Giáo sư, cần có những giải pháp, chính sách đột phá như thế nào để tháo gỡ?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trước hết cần đổi mới tư duy trong quá trình sửa đổi Luật giáo dục đại học (cũng như Luật Khoa học công nghệ) lần này. Theo tôi, sửa đổi và xây dựng mới các luật và chính sách không thể là sự chắp vá, không chỉ tháo gỡ những khó khăn hiện tại, mà phải kiến tạo và có tính chất thúc đẩy để các cơ sở giáo dục đào tạo được phát triển, nhà khoa học được cống hiến hết mình, các tổ chức khoa học công nghệ nhanh chóng cho ra đời những công nghệ cao, công nghệ lõi made in Vietnam.

Chúng ta đề ra mục tiêu có những trường đại học top 100 thế giới, có những lĩnh vực khoa học công nghệ top đầu của khu vực và top 30 của thế giới thì Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học cũng như Luật Khoa học công nghệ và các bộ luật khác phải đồng hành cùng với ngành giáo dục để chúng ta phải đạt được mục tiêu đó.

Từ đó, tôi cho rằng cần năm nhóm giải pháp đột phá.

Về thể chế và chính sách, cần ban hành các cơ chế để thực hiện tự chủ thực chất, thông thoáng và mạnh mẽ nhất cho các trường đại học, đi liền với trách nhiệm giải trình minh bạch; tạo hành lang pháp lý thúc đẩy liên kết nhà trường – doanh nghiệp – viện nghiên cứu.

Về phát triển đội ngũ, cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đồng thời có chính sách thúc đẩy hợp tác với các nhóm nghiên cứu mạnh của quốc tế; khuyến khích nhân tài là người Việt Nam và người nước ngoài, và giáo sư người Việt ở nước ngoài về nước tham gia giảng dạy và nghiên cứu.

Đổi mới mô hình và phương pháp giáo dục, mạnh dạn áp dụng những mô hình và phương thức mới, chuyển mạnh từ giáo dục truyền thụ sang phát triển năng lực, kỹ năng; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, big data vào giảng dạy – kiểm tra – đánh giá; khuyến khích các mô hình giáo dục đa ngành, liên ngành, gắn nghiên cứu với thực tiễn; xây dựng các chương trình đào tạo có chuẩn đầu ra hội nhập với quốc tế.

Hệ thống phòng sạch tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: vnu.edu.vn).

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục với các phòng thí nghiệm hiện đại, hạ tầng và dữ liệu là những yếu tố không thể thiếu.

Có chính sách đãi ngộ, thỏa đáng và đột phá với tri thức, với nhân tài vì với giáo dục đại học, giảng viên là nhà khoa học – nhân tố được xác định là then chốt trong Nghị quyết 57/TW.

– Giáo sư có đề xuất gì cho Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc xây dựng nghị quyết mới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trước hết phải đổi mới tư duy và cách nghĩ, cách làm từ trước đến nay để tạo nên những đột phá mạnh mẽ và quyết liệt như Nghị quyết 57/TW

Tôi đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức lấy ý kiến sâu rộng từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và cơ sở giáo dục để đảm bảo nghị quyết có tính thực tiễn và đồng thuận cao.

Bên cạnh đó, Bộ cần tổng kết thực tiễn, tiếp tục hoàn thiện tự chủ đại học để “khoán 10” trong giáo dục được nhân rộng trong toàn quốc; xác định một số lĩnh vực mũi nhọn, cấp thiết, cũng như triển khai một số mô hình mới, phương thức mới để có chính sách tập trung, thí điểm thành công rồi nhân rộng. Ví dụ như thí điểm tự chủ tài chính – học thuật, hợp tác quốc tế toàn diện ở một số trường đại học trọng điểm.

Đại học Quốc gia Hà Nội đặt mục tiêu giai đoạn 2026-2030 trở thành đại học nghiên cứu chuẩn quốc tế, lọt tốp 500 trên bảng xếp hạng các trường đại học tốt nhất toàn cầu.

Bộ nên triển khai sâu rộng STEM, trí tuệ nhân tạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục; lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2 chính thức giảng dạy trong toàn bộ hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học; đề xuất xây dựng chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đây là nhiệm vụ quốc gia có tính chiến lược, tương tự như chương trình phát triển khoa học – công nghệ quốc gia.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần đề ra mục tiêu cụ thể năm 2035 Việt Nam phải có một số lĩnh vực, một số trường đại học tố-p 100-200 thế giới; Giáo dục đại học phải đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong những lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và đổi mới sáng tạo.

– Giáo sư có kỳ vọng gì vào những chuyển biến của ngành trong thời gian tới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Tôi kỳ vọng Nghị quyết mới sẽ thực sự tạo ra đột phá trong tư duy phát triển giáo dục, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ số lượng sang chất lượng, từ đào tạo đại trà sang đào tạo tinh hoa – đổi mới sáng tạo – hội nhập, từ đó cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, giúp Việt Nam tự chủ tự cường trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện thành công những mục tiêu mà Nghị quyết 57/TW đã đề ra.

Từ đó, chúng ta có thể hệ trẻ đầy đủ kiến thức, năng lực, tư duy và bản lĩnh, tài năng để làm chủ đất nước, chấn hưng đất nước giàu mạnh hùng cường, sánh vai với các nước năm châu.

Tôi cũng hy vọng từ Nghị quyết sẽ có những “cú huých” lớn, giúp giáo dục đại học Việt Nam có những chuyển biến nhảy vọt, từng bước lọt vào tốp 100 khu vực và thế giới, và giáo dục phổ thông thực sự phát triển toàn diện, hình thành lớp học sinh sáng tạo, nhân văn, có hoài bão và tinh thần cống hiến.

– Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!./.

Đưa AI trở thành môn bắt buộc: Đòn bẩy quan trọng của giáo dục đại học Việt Nam

Viêc đưa AI thành môn học bắt buộc không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là đòn bẩy quan trọng giúp GDĐH Việt Nam bắt nhịp với thế giới. 

Vừa qua, Đại học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng học phần “Nhập môn công nghệ số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo” để trang bị kiến thức nền tảng về tư duy số và những công cụ phổ biến về trí tuệ nhân tạo (AI) cho sinh viên. Theo kế hoạch, sinh viên chính quy toàn Đại học Quốc gia Hà Nội từ khóa tuyển sinh 2025 sẽ học trực tuyến học phần này. Đây được đánh giá là bước đi mạnh mẽ nhằm chuẩn hóa năng lực số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và dẫn dắt chuyển đổi số. [1]

Ngày 29/5, Tổng Bí thư Tô Lâm, trưởng Ban Chỉ đạo, chủ trì phiên họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Phát biểu tại phiên họp, Tổng Bí thư cho rằng, giáo dục và đào tạo đến nay cần xem chương trình trí tuệ nhân tạo được đào tạo từ lớp nào, bắt đầu từ đâu và chương trình thế nào. Nếu không có việc này, không thể nói rằng đổi mới trong giáo dục và đào tạo. Chúng ta đang bình dân học vụ số, nhưng trí tuệ nhân tạo không còn bình dân nữa, phải đưa chương trình đào tạo thì chúng ta mới có đội ngũ.

“Bây giờ đến lớp 9, lớp 10 cũng phải có trí tuệ nhân tạo như thế nào, đào tạo toàn bộ thế nào, đại học thế nào và chuyên gia học những gì. Ai cũng phải sử dụng trí tuệ nhân tạo, trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, không thể chỉ chung chung được nữa”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Bước đi có ý nghĩa chiến lược, thể hiện tư duy đổi mới, hội nhập

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch hội đồng Giáo sư cơ sở năm 2025 của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo (AI) đóng vai trò vô cùng quan trọng và mang tính cách mạng đối với ngành giáo dục. Trong đó, trường đại học là trụ cột chiến lược, giữ vai trò tiên phong trong việc thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái AI tại Việt Nam. Bởi đây là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng của lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Hệ sinh thái AI sẽ không thể vững mạnh nếu thiếu những kỹ sư, nhà nghiên cứu, chuyên gia được đào tạo bài bản và cập nhật kiến thức hiện đại.

Đồng thời, cơ sở giáo dục đại học chính là nơi thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ AI. Các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu trong trường đại học cần là nơi tạo ra các thuật toán mới, mô hình học sâu, ứng dụng thực tiễn trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, giao thông, nông nghiệp, công nghiệp quốc phòng…

Cùng với đó, với vai trò quan trọng trong xây dựng chính sách, định hướng chiến lược phát triển AI cho quốc gia, những nhà khoa học, chuyên gia của các trường đại học cũng tham gia vào quá trình tư vấn, phản biện, đóng góp xây dựng chiến lược quốc gia về AI một cách bài bản, có tầm nhìn dài hạn, tránh phong trào và manh mún.

Do đó, trường đại học cần trở thành hạt nhân kết nối trong hệ sinh thái AI, liên kết nhà nước – doanh nghiệp – nhà trường – viện nghiên cứu, từ đó thúc đẩy hợp tác và phát triển đồng bộ. Trường đại học có thể đóng vai trò là vườn ươm khởi nghiệp công nghệ cao, là nơi tổ chức các diễn đàn, hội thảo lớn về AI, kết nối cộng đồng chuyên gia trong và ngoài nước.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Theo thầy Đức, việc đưa trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành một môn học bắt buộc trong chương trình đại học là một bước đi có ý nghĩa chiến lược, thể hiện tư duy đổi mới, hội nhập và đón đầu xu thế phát triển toàn cầu. Điều này giúp nâng cao năng lực số và tư duy thời đại mới cho sinh viên bởi AI không còn là lĩnh vực riêng của công nghệ thông tin mà đang len lỏi vào mọi ngành nghề, từ y tế, tài chính, kỹ thuật, giao thông, nông nghiệp đến giáo dục, nghệ thuật.

Vì vậy, trang bị kiến thức nền tảng về AI cho mọi sinh viên dù theo học ngành kỹ thuật, kinh tế hay xã hội là việc bắt buộc để họ không bị tụt hậu, biết cách ứng dụng AI vào công việc và cuộc sống. Bên cạnh đó, khi AI trở thành môn học chính thức, sẽ kéo theo sự thay đổi về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và công nghệ hỗ trợ học tập, từ đó thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy và học trong giáo dục đại học. Việc dạy học sẽ trở nên trực quan, cá nhân hóa hơn nhờ các công cụ hỗ trợ của AI. Giảng viên cũng cần chủ động cập nhật và nâng cao năng lực công nghệ, từ đó thúc đẩy chuyển đổi số thực chất trong giáo dục đại học.

Ngoài ra, một khi AI được dạy đại trà, sẽ hình thành nên một cộng đồng sinh viên, nhà khoa học, kỹ sư có hiểu biết về AI ở khắp các lĩnh vực sẽ góp phần hình thành hệ sinh thái AI học thuật và nghiên cứu mạnh. Điều này cũng sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho nghiên cứu liên ngành, ứng dụng AI để giải quyết các bài toán thực tiễn của đất nước, từ các lĩnh vực kính tế, xã hội nhân văn đến nông nghiệp thông minh, logistics, đô thị thông minh, cho đến an ninh quốc phòng. Mặt khác, trong thời đại hội nhập, nhà tuyển dụng toàn cầu ưu tiên những người có kỹ năng số, hiểu biết về AI, dữ liệu, lập trình và tư duy hệ thống sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho sinh viên Việt Nam trong thị trường lao động toàn cầu. Khi AI trở thành kỹ năng phổ cập, sinh viên Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn, dễ dàng thích ứng và làm việc trong môi trường quốc tế.

“Việc đưa AI thành môn học bắt buộc trong chương trình đại học không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là đòn bẩy quan trọng giúp giáo dục đại học Việt Nam bắt nhịp với thế giới, nâng tầm chất lượng đào tạo và đóng góp trực tiếp cho công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên số. Đây cũng là trách nhiệm, là tầm nhìn mà các trường đại học, đặc biệt là Đại học Quốc gia Hà Nội với vai trò là nòng cột và đầu tàu trong đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo của cả nước tiên phong đảm nhận”, thầy Đức cho hay.

Sinh viên nghiên cứu, học tập tại Viện Trí tuệ nhân tạo, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh website nhà trường

Đồng ý kiến với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng ban Ban Đào tạo và Công tác sinh viên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, AI đang làm thay đổi căn bản nhiều lĩnh vực trong xã hội và giáo dục cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, AI không chỉ là một công nghệ mới, mà còn là chất xúc tác thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy và học, cá nhân hóa việc học tập và tối ưu hóa công tác quản lý giáo dục. Các trường đại học đóng vai trò then chốt trong việc phát triển hệ sinh thái AI quốc gia, với ba trụ cột gồm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu và phát triển công nghệ; chuyển giao tri thức.

Theo thầy Tuấn, Đại học Quốc gia Hà Nội là một trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực và có thế mạnh trong việc đào tạo liên ngành giữa công nghệ, khoa học dữ liệu và các lĩnh vực xã hội – nhân văn. Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng AI gắn với bài toán thực tiễn của Việt Nam, từ y tế, giáo dục, quản trị đô thị, cho đến nông nghiệp thông minh. Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực AI, đồng thời hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp và các viện nghiên cứu trong và ngoài nước.

Việc phát triển học phần “Nhập môn công nghệ số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo” dành cho mọi sinh viên từ năm học 2025-2026 là một minh chứng rõ ràng cho định hướng chiến lược đó. Bởi AI không chỉ là chuyện của kỹ sư, mà cần trở thành một phần trong tư duy và năng lực công dân số của mọi sinh viên đại học. Đồng thời, đây cũng là một bước đi chiến lược và cấp thiết, không chỉ với giáo dục đại học mà còn đối với tương lai phát triển của lực lượng lao động Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng ban Ban Đào tạo và Công tác sinh viên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Chia sẻ thêm về AI, thầy Tuấn cho rằng, đây không còn là một lĩnh vực chuyên môn hẹp, mà đang trở thành một năng lực nền tảng mà sinh viên thuộc mọi ngành nghề đều cần tiếp cận. Từ các lĩnh vực như kinh tế, y học, luật, báo chí cho đến khoa học xã hội, AI đang làm thay đổi cách con người tiếp cận tri thức, giải quyết vấn đề và ra quyết định.

Việc triển khai học phần bắt buộc về AI sẽ giúp định hình tư duy số cho sinh viên điều được nhấn mạnh trong cả Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số và khung năng lực công dân số do nhà nước ban hành. Sinh viên không chỉ là người sử dụng/ứng dụng công nghệ, mà còn phải biết tư duy phản biện, hiểu rõ mặt tích cực và rủi ro của AI, từ đó trở thành công dân số có trách nhiệm.

Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để các trường đại học đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường hình thức học tập linh hoạt, học tập cá nhân hóa qua các nền tảng số, đồng thời thúc đẩy sự gắn kết giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng thực tiễn.

Thầy Tuấn nhấn mạnh: “Mục tiêu của Đại học Quốc gia Hà Nội không phải đào tạo chuyên gia AI trong một học kỳ, mà là trang bị cho sinh viên nền tảng nhận thức, tư duy số và kỹ năng sử dụng những công cụ AI phổ biến trong học tập, nghiên cứu và công việc tương lai. Với cách tiếp cận này, AI không còn là kỹ năng của tương lai, mà còn là năng lực của hiện tại, góp phần làm mới hệ sinh thái giáo dục đại học và thúc đẩy một xã hội học tập hiện đại, bao trùm”.

Kỳ vọng việc phổ cập AI sẽ giúp Việt Nam phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Theo quan điểm của thầy Nguyễn Đình Đức, để triển khai hiệu quả việc đưa AI trở thành môn học bắt buộc, các trường đại học cần chuẩn bị kỹ lưỡng về chương trình, đội ngũ, hạ tầng và sự đồng hành từ doanh nghiệp – nhà nước.

Thứ nhất, phải xây dựng chương trình bài bản, chuẩn đầu ra rõ ràng. AI cần được thiết kế như một môn học nền tảng, liên ngành, tập trung vào các khái niệm cốt lõi như: học máy, học sâu, xử lý dữ liệu, thuật toán thông minh, đạo đức trong AI. Mỗi ngành học có thể có định hướng nội dung AI riêng biệt, ví dụ: AI trong kỹ thuật, AI trong kinh tế, AI trong y tế,… Ngoài ra, chuẩn đầu ra cần cụ thể, thiết thực, gắn với chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, với yêu cầu thực tế của thị trường lao động và các tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ hai, đội ngũ giảng viên và chuyên gia đủ mạnh. Để giảng dạy AI hiệu quả, giảng viên cần có kiến thức nền tảng tốt, kinh nghiệm nghiên cứu và khả năng ứng dụng thực tiễn. Cần tổ chức các chương trình đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao, mời chuyên gia từ doanh nghiệp, viện nghiên cứu và kết nối với giảng viên quốc tế.

Thứ ba, về hạ tầng công nghệ và tài nguyên học liệu. AI đòi hỏi hạ tầng tính toán mạnh, phần mềm chuyên dụng, phòng lab dữ liệu – tính toán. Do đó, cần có nguồn học liệu mở, cập nhật, cùng với các bài giảng số, mô hình AI mẫu và nền tảng thực hành để sinh viên tự học.

Thứ tư, về kết nối với thực tiễn và doanh nghiệp. Chương trình nên gắn với các dự án thực tế, khuyến khích sinh viên ứng dụng AI vào các vấn đề trong doanh nghiệp, xã hội. Đồng thời, các trường có thể mời doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình, đánh giá sinh viên, tài trợ nghiên cứu và tuyển dụng trực tiếp.

Thầy Đức cũng kỳ vọng rằng, việc đào tạo AI một cách phổ cập và bài bản trong đại học sẽ không chỉ thay đổi chất lượng giáo dục, mà còn thay đổi cục diện phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong kỷ nguyên mới, từ thụ động sang chủ động, từ gia công sang sáng tạo, từ tiêu dùng sang dẫn dắt công nghệ.

“Việc phổ cập AI trong giáo dục vừa là thể hiện tầm nhìn, cũng là cơ hội mang tính chiến lược quốc gia. Do đó, chúng ta cần hành động sớm, kiên trì và nhất quán để không bỏ lỡ thời điểm vàng trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, thầy Đức nhấn mạnh.

thumb-vnu.jpg
Ảnh minh họa: Website Đại học Quốc gia Hà Nội

Trong khi đó, thầy Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, việc các trường đại học đồng loạt chú trọng đào tạo về trí tuệ nhân tạo (AI), đặc biệt là đưa AI trở thành môn học bắt buộc, là một tín hiệu rất tích cực và đáng kỳ vọng cho sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và cả nền kinh tế quốc gia.

Trước hết, điều này sẽ giúp hình thành một thế hệ sinh viên có kiến thức nền tảng về AI. Có thể không phải ai cũng là kỹ sư trí tuệ nhân tạo, nhưng mỗi sinh viên ra trường đều có thể hiểu, sử dụng, hợp tác và ra quyết định trong môi trường có AI. Đây là năng lực nền tảng trong bối cảnh số hóa toàn diện đang diễn ra.

Cùng với đó, AI sẽ không còn là “sân chơi riêng” của một số ít chuyên gia công nghệ, mà trở thành kiến thức, kỹ năng chung cho mọi ngành nghề: từ bác sĩ sử dụng AI trong chẩn đoán hình ảnh, giáo viên dùng AI để cá nhân hóa việc dạy học, đến nhà báo, luật sư, nhà quản trị ra quyết định dựa trên dữ liệu. Đây chính là nền tảng để Việt Nam hình thành nền kinh tế số và kinh tế trí thức. Ngoài ra, nếu AI trở thành một phần trong tư duy của sinh viên, sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động trong khi các công việc ngày càng đòi hỏi người làm “biết cộng tác với các công cụ AI”. Vì vậy, người lao động không chỉ cần chuyên môn, mà còn phải có tư duy số, đạo đức số, và năng lực tương tác thông minh với công nghệ.

Về dài hạn, việc đồng loạt đào tạo AI cũng là cơ hội để thu hẹp khoảng cách số giữa các nhóm ngành, các khu vực đào tạo, và giữa Việt Nam với thế giới. Nếu chúng ta triển khai bài bản và sớm, đây không chỉ là cuộc “chạy đua công nghệ” mà là một “cuộc chuyển đổi năng lực” ở cấp quốc gia.

“Tôi kỳ vọng rằng việc phổ cập giáo dục AI trong các trường đại học sẽ không chỉ tạo ra những người lao động biết sử dụng công nghệ, mà là thế hệ công dân số tự tin, trách nhiệm và sáng tạo, đủ khả năng đưa Việt Nam bước vào nền kinh tế tri thức một cách chủ động và có bản sắc riêng”, thầy Tuấn bày tỏ.

Tài liệu tham khảo:

[1] https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C2090/N36835/dHQGHN-dua-hoc-phan-cong-nghe-so-va-tri-tue-nhan-tao-vao-giang-day-tu-nam-nhat.htm