TPO – Hôm nay, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN tổ chức Hội thảo khoa học “ Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam” và ra mắt Câu lạc bộ đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
Tại hội thảo, các báo cáo đã đề cập đến xu thế vận động và mô hình mới của trường đại học (ĐH) và ĐH số trong thời đại ngày nay; đến chuyển đổi số trong giáo dục, sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ và nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo cũng như hoạt động đổi mới sáng tạo trong nhà trường – đều là những nhân tố mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, xã hội 5.0, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức cho giáo dục đại học.
Từ thực tế này cũng nảy sinh yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn để tiếp cận mới trong xây dựng chương trình đào tạo; chuẩn đầu ra; phương pháp dạy và học mới; cũng như các tiêu chuẩn những tiêu chí và phương pháp đánh giá mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, làm định hướng cho sự phát triển của các trường đại học Việt Nam trong thời gian tới.
Tại hội thảo, các nhà khoa học cũng đề xuất thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới và trí tuệ nhân tạo, đi đôi với xây dựng thể chế, khung pháp lý để hỗ trợ người học và giảng viên trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thúc đẩy xây dựng trường học thân thiện, thông minh; đẩy mạnh xây dựng và khai phá dữ liệu; đẩy mạnh STEM trong giáo dục ĐH; xây dựng các phần mềm mô phỏng kết hợp với trí tuệ nhân tạo để tạo ra những đột phá trong nghiên cứu.
Hội thảo cũng đề cập đến tính cấp thiết và các tiêu chí, quy trình kiểm định các chương trình thuộc khối sức khỏe với mục tiêu thúc đẩy hội nhập và công nhận văn bằng với quốc tế trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Khi được kiểm định theo chuẩn quốc tế, người tốt nghiệp đại học từ trường y quốc tế được WFME công nhận, có thể tiếp tục theo học chương trình nội trú để hành nghề tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand,…
Nhân dịp này, Hiệp hội các trường ĐH, cao đẳng Việt Nam ra mắt Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ mạng lưới đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam.
GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội được chỉ định làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ.
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ gồm 15 người, đại diện cho lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn cả nước.
GS Nguyễn Đình Đức khẳng định Câu lạc bộ sẽ bám sát Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu và thảo luận về các chủ đề như : thúc đẩy hoàn thiện thể chế và mô hình tự chủ đại học; mô hình đại học – trường đại học ở Việt Nam; đẩy mạnh khai thác và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục đại học; xây dựng đại học số của Việt Nam; Xây dựng chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo hội nhập với quốc tế và bối cảnh CMCN 4.0; đánh giá thực trạng và cơ cấu, quy mô ngành nghề đào tạo ở Việt Nam; giải pháp nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên Việt Nam; nghiên cứu hỗ trợ học sinh tự kỷ trong giáo dục đại học,…
Câu lạc bộ cũng sẽ nghiên cứu thảo luận về các chủ đề rất thiết thực như: đổi mới chuẩn đầu ra và cấu trúc chương trình đào tạo; nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động khảo thí và kiểm định chất lượng trong các cơ sở giáo dục ĐH ; đẩy mạnh STEM trong giáo dục ĐH; chia sẻ tài nguyên, học liệu trong hệ thống giáo dục đại học; giải pháp nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng các hoạt động nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục ĐH nhằm đáp ứng những yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 20.12.2023, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức lễ ra mắt Câu Lạc Bộ đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam và tổ chức Hội thảo khoa học “Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam”.
Câu Lạc bộ đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 58/QĐ-HH-CLB của Hiệp hội các trường đại học cao đẳng Việt Nam. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội được chỉ định làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ.
Trong lễ ra mắt Ban chủ nhiệm CLB hôm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ nhiệm Câu lạc bộ nhấn mạnh: “Câu lạc bộ sẽ bám sát Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu và thảo luận về các chủ đề như: thúc đẩy hoàn thiện thể chế và mô hình tự chủ đại học; mô hình đại học – trường đại học ở Việt Nam; đẩy mạnh khai thác và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục đại học; xây dựng đại học số của Việt Nam; Xây dựng chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo hội nhập với quốc tế và bối cảnh CMCN 4.0; đánh giá thực trạng và cơ cấu, quy mô ngành nghề đào tạo ở Việt Nam; giải pháp nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên Việt Nam; nghiên cứu hỗ trợ học sinh tự kỷ trong giáo dục đại học,…
Câu lạc bộ cũng sẽ nghiên cứu thảo luận về các chủ đề rất thiết thực như: đổi mới chuẩn đầu ra và cấu trúc chương trình đào tạo; nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động khảo thí và kiểm định chất lượng trong các cơ sở GDĐH; đẩy mạnh STEM trong giáo dục đại học; chia sẻ tài nguyên, học liệu trong hệ thống giáo dục đại học; giải pháp nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng các hoạt động NCKH của các cơ sở GDĐH nhằm đáp ứng những yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Tại Hội thảo, PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội cho biết, sự ra đời Câu Lạc bộ này là sự kiện lớn, có ý nghĩa hết sức quan trọng với giáo dục đại học Việt Nam.
GS.TS. Chử Đức Trình, Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghệ cho biết: “Chúng tôi rất vinh dự được tổ chức Lễ ra mắt Câu lạc bộ Đảm bảo chất lượng của các Trường Đại học ngày hôm nay. Tôi cho rằng, chỉ có sự đồng hành của các Trường Đại học, Các doanh nghiệp và Các cơ quan quản lý thì chúng ta mới có thể xây dựng được một hệ thống giáo dục đại học tiên tiến tại Việt Nam và là cái gốc để xây dựng một tương lai tươi sáng cho lực lượng lao động Việt Nam. Chỉ có như vậy, thì chúng ta mới có thể vươn lên thành các trường đại học có đẳng cấp quốc tế, vươn lên thành các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo toàn cầu, chỉ có như thế Việt Nam mới vươn lên vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu”.
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ gồm 15 người, đại diện cho lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn cả nước. Ban Thư ký sẽ do Chủ nhiệm Câu lạc bộ quyết định thành lập.
Thành viên của Câu lạc bộ (CLB) là các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), cao đẳng, các tổ chức/doanh nghiệp quan tâm đến giáo dục đại học, các chuyên gia và các nhà khoa học cùng tham gia nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, hội nhập quốc tế trong các cơ sở GDĐH, bao gồm các hoạt động: tuyển sinh, phát triển chương trình, giáo trình, cập nhật tài liệu chuyên môn, đổi mới phương pháp và công nghệ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp trong sinh viên và phục vụ cộng đồng, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau để phát huy tốt ảnh hưởng của các trường có lợi thế; hỗ trợ các trường còn khó khăn, góp phần hiệu quả nâng cao chất lượng GDĐH của Việt Nam.
Tại lễ ra mắt, Ban tổ chức đã tổ chức hội thảo khoa học “Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam”, các báo cáo tham gia hội thảo đã đề cập đến xu thế vận động và mô hình mới của trường đại học và đại học số trong thời đại ngày nay; đến chuyển đổi số trong giáo dục, sự phát triển, ứng dụng mạnh mẽ và nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo cũng như hoạt động đổi mới sáng tạo trong nhà trường – đều là những nhân tố mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, xã hội 5.0, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức cho giáo dục đại học.
Từ thực tế này cũng nảy sinh yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn để tiếp cận mới trong xây dựng chương trình đào tạo; chuẩn đầu ra; phương pháp dạy và học mới; cũng như các tiêu chuẩn những tiêu chí và phương pháp đánh giá mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, làm định hướng cho sự phát triển của các trường đại học Việt Nam trong thời gian tới.
Theo các nhà khoa học cũng đề xuất thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới và trí tuệ nhân tạo, đi đôi với xây dựng thể chế, khung pháp lý để hỗ trợ người học và giảng viên trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thúc đẩy xây dựng trường học thân thiện, thông minh; đẩy mạnh xây dựng và khai phá dữ liệu; đẩy mạnh STEM trong giáo dục đại học; xây dựng các phần mềm mô phỏng kết hợp với trí tuệ nhân tạo để tạo ra những đột phá trong nghiên cứu.
Các chuyên gia cho rằng, trong báo cáo về kiểm định chất lượng nhận định từ khi Luật giáo dục đại học sửa đổi và ra đời Nghị định 81, bên cạnh việc kiểm định cơ sở đào tạo, các trường đã rất tích cực kiểm định các chương trình đào tạo. Về tổng thể có 3 yếu tố được đánh giá cao nhất là đội ngũ giảng viên, đội ngũ nhân viên, người học và hoạt động hỗ trợ người học. Các yếu tố còn yếu cần cải thiện là chuẩn đầu ra, ngoại ngữ, kiểm tra đánh ra các học phần.
Báo cáo tại Hội thảo cũng đề cập đến tính cấp thiết và các tiêu chí, quy trình kiểm định các chương trình thuộc khối sức khỏe với mục tiêu thúc đẩy hội nhập và công nhận văn bằng với quốc tế trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Khi được kiểm định theo chuẩn quốc tế, người tốt nghiệp đại học từ trường y quốc tế được WFME công nhận, có thể tiếp tục theo học chương trình nội trú để hành nghề tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand,…
GD&TĐ – Ngày 20/12 tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo ‘Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học’.
Hội thảo “Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học” và ra mắt Câu lạc bộ mạng lưới Bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, do Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam và Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN đồng tổ chức.
Tại hội thảo, các báo cáo đã đề cập đến xu thế vận động và mô hình mới của trường đại học và đại học số trong thời đại ngày nay; đến chuyển đổi số trong giáo dục, sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ và nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo cũng như hoạt động đổi mới sáng tạo trong nhà trường – đều là những nhân tố mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, xã hội 5.0, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức cho giáo dục đại học.
Từ thực tế này cũng nảy sinh yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn để tiếp cận mới trong xây dựng chương trình đào tạo; chuẩn đầu ra; phương pháp dạy và học mới; cũng như các tiêu chuẩn những tiêu chí và phương pháp đánh giá mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, làm định hướng cho sự phát triển của các trường đại học Việt Nam trong thời gian tới.
Các nhà khoa học cũng đề xuất thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới và trí tuệ nhân tạo, đi đôi với xây dựng thể chế, khung pháp lý để hỗ trợ người học và giảng viên trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thúc đẩy xây dựng trường học thân thiện, thông minh; đẩy mạnh xây dựng và khai phá dữ liệu; đẩy mạnh STEM trong giáo dục đại học; xây dựng các phần mềm mô phỏng kết hợp với trí tuệ nhân tạo để tạo ra những đột phá trong nghiên cứu.
Trong báo cáo về kiểm định chất lượng nhận định từ khi Luật giáo dục đại học sửa đổi và ra đời Nghị định 81, bên cạnh việc kiểm định cơ sở đào tạo, các trường đã rất tích cực kiểm định các chương trình đào tạo. Về tổng thể có 3 yếu tố được đánh giá cao nhất là đội ngũ giảng viên, đội ngũ nhân viên, người học và hoạt động hỗ trợ người học. Các yếu tố còn yếu cần cải thiện là chuẩn đầu ra, ngoại ngữ, kiểm tra đánh ra các học phần.
Báo cáo tại Hội thảo cũng đề cập đến tính cấp thiết và các tiêu chí, quy trình kiểm định các chương trình thuộc khối sức khỏe với mục tiêu thúc đẩy hội nhập và công nhận văn bằng với quốc tế trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Khi được kiểm định theo chuẩn quốc tế, người tốt nghiệp đại học từ trường y quốc tế được WFME công nhận, có thể tiếp tục theo học chương trình nội trú để hành nghề tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand,…
Tại hội thảo, Câu lạc bộ mạng lưới đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đã ra mắt, GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN được chỉ định làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ. Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ gồm 15 người, đại diện cho lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn cả nước. Thành viên của Câu lạc bộ là các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ, các tổ chức/doanh nghiệp quan tâm đến giáo dục đại học, các chuyên gia và các nhà khoa học. PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội đã phát biểu chào mừng và nhấn mạnh: Sự ra đời Câu Lạc bộ này là sự kiện lớn, có ý nghĩa hết sức quan trọng với giáo dục đại học Việt Nam.
Các trường đại học (ĐH) đang tích cực kiểm định các chương trình đào tạo. Về tổng thể có 3 yếu tố được đánh giá cao nhất là đội ngũ giảng viên, đội ngũ nhân viên, người học và hoạt động hỗ trợ người học. Các yếu tố còn yếu cần cải thiện là chuẩn đầu ra, ngoại ngữ, kiểm tra đánh ra các học phần…
Ngày 20/12, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học “Nhận diện những nhân tố mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam”.
Tại hội thảo, các báo cáo đã đề cập đến xu thế vận động và mô hình mới của trường ĐH; đề cập đến chuyển đổi số trong giáo dục, sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ và nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo cũng như hoạt động đổi mới sáng tạo trong nhà trường. Từ thực tế này cũng nảy sinh yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn để tiếp cận mới trong xây dựng chương trình đào tạo; chuẩn đầu ra; phương pháp dạy và học mới; cũng như các tiêu chuẩn về những tiêu chí và phương pháp đánh giá mới trong đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH, làm định hướng cho sự phát triển của các trường ĐH Việt Nam trong thời gian tới.
Tại hội thảo, các nhà khoa học cũng đề xuất thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới và trí tuệ nhân tạo, đi đôi với xây dựng thể chế, khung pháp lý để hỗ trợ người học và giảng viên trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thúc đẩy xây dựng trường học thân thiện, thông minh; đẩy mạnh xây dựng và khai phá dữ liệu; đẩy mạnh STEM trong giáo dục ĐH; xây dựng các phần mềm mô phỏng kết hợp với trí tuệ nhân tạo để tạo ra những đột phá trong nghiên cứu.
Theo PGS.TS Nguyễn Phương Nga, Ủy viên thường vụ BCH Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam, các trường ĐH hiện rất tích cực kiểm định các chương trình đào tạo. Về tổng thể có 3 yếu tố được đánh giá cao nhất là đội ngũ giảng viên, đội ngũ nhân viên, người học và hoạt động hỗ trợ người học. Các yếu tố còn yếu cần cải thiện là chuẩn đầu ra, ngoại ngữ, kiểm tra đánh ra các học phần.
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao là cốt lõi sự phát triển và thịnh vượng quốc gia. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao, cần phải xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn mới; đồng thời phải đầu tư mạnh mẽ cho các trường ĐH trọng điểm. Mặt khác, phải luôn xác định “tự chủ đại học” là một xu thế tất yếu, do đó phải sớm hoàn thiện thể chế, chính sách về mô hình ĐH, trường ĐH; về quản trị ĐH cách mạng 4.0. Quyết liệt đổi mới căn bản và toàn diện từ đầu vào (chương trình đào tạo) và đầu ra (kiểm tra đánh giá). Có chính sách đãi ngộ thật tốt với trí thức…
“Tôi muốn chúng ta phải hướng tới xây dựng “ĐH số” – đáp ứng được các tiêu chí như khả năng tự động thích ứng, khả năng tự học, khả năng dự báo, khả năng tự vận hành. Còn hiện xây dựng mô hình ĐH 4.0 thì chuyển đổi số sẽ chiếm 20%, đổi mới sáng tạo chiếm 30% và khoa học công nghệ – công bố phải chiếm tới 50%”, GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ.
GS.TS Nguyễn Quốc Huy, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược – ĐH Huế cho biết tính cấp thiết và các tiêu chí, quy trình kiểm định các chương trình thuộc khối sức khỏe với mục tiêu thúc đẩy hội nhập và công nhận văn bằng với quốc tế trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Khi được kiểm định theo chuẩn quốc tế, người tốt nghiệp ĐH từ trường y quốc tế được WFME công nhận, có thể tiếp tục theo học chương trình nội trú để hành nghề tại nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand,…
*Cũng trong ngày 20/12, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã công bố quyết định và lần đầu tiên ra mắt Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ mạng lưới đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường ĐH Công nghệ, được chỉ định làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ nhiệm Câu lạc bộ cho biết: Câu lạc bộ sẽ bám sát Nghị quyết 29 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu và thảo luận về các chủ đề như: Thúc đẩy hoàn thiện thể chế và mô hình tự chủ ĐH; mô hình ĐH – trường ĐH ở Việt Nam; đẩy mạnh khai thác và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục ĐH; đánh giá thực trạng và cơ cấu, quy mô ngành nghề đào tạo ở Việt Nam; giải pháp nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên Việt Nam…
Thành viên của Câu lạc bộ là các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ, các tổ chức/doanh nghiệp quan tâm đến giáo dục ĐH, các chuyên gia và các nhà khoa học cùng tham gia nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, hội nhập quốc tế, góp phần hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục ĐH của Việt Nam.
Được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ với sứ mạng là đại học trọng điểm quốc gia – một trung tâm đào tạo chất lượng cao, trình độ cao gắn với nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế, làm nòng cốt và đầu tàu đổi mới cho hệ thống giáo dục nước nhà. Sau 30 năm hình thành và phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu lớn, qua đó không chỉ khẳng định vị thế là nơi truyền bá tri thức, mà còn là nơi sáng tạo tri thức mới, là đại diện tiêu biểu của nền học thuật quốc gia – dân tộc.
GDVN- Mục tiêu đến năm 2045, Trường ĐH Công nghệ trở thành một trung tâm xuất sắc, đi đầu trong đào tạo tài năng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Sáng ngày 28/11, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Lễ Công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.
Tại buổi lễ, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường đã trao Nghị quyết ban hành chiến lược cho Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường, để Ban Giám hiệu nhà trường tổ chức triển khai thực hiện.
Chiến lược “tham vọng” thể hiện trách nhiệm của nhà trường
Phát biểu chỉ đạo tại Lễ công bố, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường chia sẻ: “Ngày hôm nay là một ngày có ý nghĩa lịch sử đối với sự phát triển của Trường Đại học Công nghệ và Đại học Quốc gia Hà Nội.
Năm nay, Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố chiến lược phát triển mới, trong đó đề ra mục tiêu là đến năm 2035, Đại học Quốc gia Hà Nội phải vào top 300, đến năm 2045 phải vào top 200 trong các bảng xếp hạng thế giới.
Xếp hạng phải phụ thuộc vào các trường thành viên, các trường phải đồng hành, và Trường Đại học Công nghệ tiên phong công bố kế hoạch chiến lược của mình, điều này thể hiện sự đồng hành với Đại học Quốc gia Hà Nội”.
Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết, việc ban hành Chiến lược mới dựa vào 3 căn cứ, là: chiến lược phát triển của Đại học Quốc gia Hà Nội; Thực hiện tự chủ đại học và việc trường chuẩn bị chuyển lên cơ sở Hòa Lạc – tương lai của Đại học Quốc gia Hà Nội.
“Trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học, trường đại học phải tự đứng trên đôi chân của mình và phải vươn lên bằng chất lượng, hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả gắn với quy mô phải là vấn đề cần cân nhắc để có sự đồng thuận trong phát triển nhà trường.
Với chiến lược đầy tham vọng này sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, nhưng thể hiện sự cam kết, trách nhiệm của Trường Đại học Công nghệ với Đại học Quốc gia Hà Nội và với xã hội”, Giáo sư Đức khẳng định.
Chủ tịch Hội đồng trường nhấn mạnh, sứ mệnh của Trường Đại học Công nghệ luôn gắn với sứ mệnh của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thầy Đức cho biết thêm: Chiến lược lần này thay đổi về quy mô, trường hướng tới đào tạo cả về cơ khí chế tạo máy. Từ đây, nhà trường sẽ hoàn thiện và làm ra được những sản phẩm hoàn chỉnh, cộng với thế mạnh vốn có của Trường Đại học Công nghệ, trường sẽ vươn lên phát triển.
Nhà trường cũng tiếp tục đẩy mạnh những ngành mũi nhọn, mở rộng quy mô một số ngành nghề vệ tinh như: Fintech, quản lý quá trình sản xuất. Nhà trường quyết tâm phải là một trường hàng đầu về công nghệ, khi đó, đào tạo về quản lý công nghệ mới đạt kết quả tốt.
Chiến lược phát triển nhà trường trước đây xác định Trường Đại học Công nghệ trở thành một trường đại học hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ thì chiến lược lần này xác định trường sẽ trở thành một đại học tiên tiến của châu Á và của khu vực, quyết tâm đến năm 2035 có một số lĩnh vực vào top 300. Điều này thể hiện hoài bão của trường nhưng là có cơ sở, vì một số lĩnh vực hiện nay trường đã đạt được top 386.
Trường Đại học Công nghệ có thế mạnh là đầu vào chất lượng và đội ngũ cán bộ cũng chất lượng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ đều là những tiến sĩ trẻ năng động, được đào tạo ở những nước tiên tiến, có năng lực công bố, năng lực nghiên cứu đầy hoài bão, nên thời gian tới nhà trường chú trọng chăm lo đến phát triển con người (đầu vào – đầu ra).
Trong đợt kiểm định chất lượng giáo dục vừa rồi, đoàn kiểm định đánh giá chất lượng đầu ra của trường rất tốt, tất cả sinh viên của trường khi ra trường 100% đều có việc làm ngay, trong đó lĩnh vực công nghệ thông tin có 82% sinh viên ra trường có việc làm đúng chuyên môn, còn các lĩnh vực khác cũng có trên 60% sinh viên tốt nghiệp ra trường có việc làm đúng chuyên môn. Có những sinh viên của trường được làm việc ở những công ty toàn cầu, trở thành nhân lực chủ chốt trong lĩnh vực kỹ thuật.
Mục tiêu thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo tiên tiến của châu Á
Cũng tại buổi Lễ công bố Chiến lược này, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường, đã trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp cơ bản nhất để triển khai thực hiện Chiến lược.
Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình cho biết, mục tiêu và sứ mệnh phát triển đã được xác định và tuyên bố ngay từ khi thành lập Trường Công nghệ năm 2004 với Hiệu trưởng đầu tiên là Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu.
Gần đây nhất, năm 2019, Trường Đại học Công nghệ đã ban hành Quyết định điều chỉnh Chiến lược phát triển nhà trường, tầm nhìn đến 2035. Chỉ trong vòng 5 năm từ 2019 đến nay, Trường Đại học Công nghệ đã bám sát Chiến lược đó, phát triển vượt bậc cả về quy mô và số lượng chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề.
Bên cạnh các ngành truyền thống thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, Điện tử Viễn thông, Cơ kỹ thuật và Tự động hóa, Vật lý kỹ thuật. Từ 2019 cho đến 2023, nhà trường đã mở thêm mới những lĩnh vực quan trọng như Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông, Công nghệ hàng không vũ trụ, Nông nghiệp công nghệ cao và Trí tuệ nhân tạo.
Giáo sư Chử Đức Trình cho biết, chiến lược lần này được sửa đổi và điều chỉnh, nhưng theo nguyên tắc trung thành tuyệt đối với triết lý, mục tiêu của các Chiến lược mà các bậc tiền bối đã xây đắp qua các thời kỳ.
Theo đó, sứ mệnh của Trường Đại học Công nghệ là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu phát triển và ứng dụng các lĩnh vực khoa học – công nghệ tiên tiến; tiên phong tiếp cận chuẩn mực giáo dục đại học khu vực và thế giới, đóng góp tích cực vào sự phát triển nền kinh tế và xã hội tri thức của đất nước. Với khẩu hiệu hành động là: Sáng tạo – Tiên phong – Chất lượng cao.
Triết lý giáo dục của nhà trường là: Sáng tạo và vun đắp giá trị nhân văn của công nghệ.
Giáo sư Chử Đức Trình khẳng định, mục tiêu giáo dục của đại học định hướng nghiên cứu không chỉ để tiếp cận tri thức và công nghệ tiên tiến mà còn nâng cao năng lực sáng tạo tri thức và công nghệ mới, định hướng áp dụng công nghệ vị nhân sinh và phát triển bền vững; góp phần hình thành thế hệ công dân mới có năng lực và trách nhiệm phụng sự xã hội.
Bốn giá trị cốt lõi của Trường Đại học công nghệ là: đổi mới sáng tạo; hợp tác; chất lượng cao và nhân văn.
Giáo sư Chử Đức Trình cho biết, từ năm 2022, Trường Đại học Công nghệ thực hiện tự chủ chi thường xuyên. Hiện trường có 18 chương trình đào tạo đại học, 11 chương trình thạc sĩ, 9 chương trình tiến sĩ với 7576 sinh viên.
Trường Đại học Công nghệ là trường thành viên tích cực đóng góp vào bảng xếp hạng của Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2023, Đại học Quốc gia Hà Nội đứng ở vị trí 661, tăng 97 bậc trong Bảng xếp hạng các trường đại học thế giới.
Tầm nhìn của Trường Đại học Công nghệ đến năm 2045 là: Duy trì vị thế một trường đại học kỹ thuật công nghệ hàng đầu trong nước, nằm trong nhóm các trường đại học tiên tiến ở Châu Á; một trung tâm xuất sắc, đi đầu trong đào tạo tài năng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Một số lĩnh vực của nhà trường nằm trong bảng xếp hạng 200-300 thế giới vào năm 2035.
Các chỉ tiêu chiến lược cụ thể, về đào tạo: đến năm 2023, quy mô 15.000 người học, đến năm 2045 là 30.000 người học, trong đó kỹ sư/thạc sĩ chiếm 35%. Và là môi trường học tập quốc tế hóa cao.
Về khoa học công nghệ: Năm 2030, công bố 850 bài báo khoa học quốc tế uy tín, đến năm 2045, công bố khoảng 1800 bài báo quốc tế uy tín trong danh mục ISI/Scopus, trong đó bài báo Q1/Q2 chiếm 65%; Định hướng giải quyết các bài toán khoa học lớn của nhân loại.
Về phát minh, sáng chế, phấn đấu đến năm 2030 có 50 phát minh sáng chế, đến năm 2045 mục tiêu có 100 phát minh sáng chế.
Về chuyển giao, thương mại hóa sản phẩm, có 10 hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Về quan điểm phát triển, Trường Đại học Công nghệ là một trung tâm quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài trên các lĩnh vực khoa học công nghệ tiên tiến của cả nước và khu vực, gắn với phát triển bền vững, thực hiện trách nhiệm xã hội, trách nhiệm quốc gia, và phù hợp với xu thế tự chủ đại học
Phát triển giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học vị nhân sinh, là nguồn cung ứng nhân lực chất lượng cao và tri thức khoa học công nghệ quan trọng phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
Từng bước mở rộng quy mô và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu của Nhà trường tại Khu đô thị đại học Hòa Lạc.
Hướng đến thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc tại Việt Nam (SDGs).
Về định hướng đào tạo, Chương trình đào tạo sẽ đa dạng, bao phủ các lĩnh vực khoa học công nghệ, STEAM, đảm bảo tính mở, liên ngành, tính tự học, thực hành thực tập thực tế,…
Về quản trị và hạ tầng, tiến tới quản trị đại học số, kết nối, cơ sở dữ liệu, học liệu mở; xây dựng phòng thí nghiệm, thực hành mở, cùng với kết nối doanh nghiệp.
Về định hướng khoa học công nghệ, Trường Đại học Công nghệ trở thành đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo với môi trường làm việc và nghiên cứu khoa học, có các phòng thí nghiệm công nghệ, hàn lâm, các phòng thí nghiệm hợp tác doanh nghiệp; Patent và Spin-off và có sản phẩm khoa học công nghệ có ảnh hưởng toàn cầu.
Đồng thời, nhà trường triển khai Đề án Tự chủ đại học; đến năm 2035 cơ bản hoàn thành đại học số; Từng bước thành lập các đơn vị mới có pháp nhân như các trường (School) và Viện trực thuộc; Xây dựng cơ chế đặc thù thu hút và trọng dụng nhân tài.
Ngày 28/11/2023, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET) đã trang trọng tổ chức Lễ công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn 2045.
Tham dự buổi lễ về phía ĐHQGHN có PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng ban Đào tạo; TS. Lê Xuân Tình – Phó Trưởng ban Kế hoạch tài chính; TS. Trương Việt Hà – Phó Trưởng ban Tổ chức cán bộ. Về phía Trường ĐH Công nghệ có GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường, GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, các Phó Hiệu trưởng, các thầy nguyên lãnh đạo nhà trường qua các thời kỳ, lãnh đạo các đơn vị trong Trường, giảng viên và sinh viên.
Các nhà khoa học, chuyên gia giáo dục, các nhà quản lý tham dự lễ công bố Chiến lược của Trường ĐH Công nghệ
Phát biểu khai mạc, GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường khẳng định, Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 có ý nghĩa đối với tiến trình xây dựng và phát triển của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Từ những ngày đầu thành lập Trường ĐH Công nghệ, mục tiêu và sứ mệnh phát triển đã được xác định và tuyên bố ngay khi thành lập Trường vào năm 2004 với Hiệu trưởng sáng lập là GS.VS Nguyễn Văn Hiệu. Đến năm 2019, Trường đã ban hành và điều chỉnh Chiến lược phát triển, tầm nhìn đến năm 2035. Trong 5 năm qua, Trường phát triển vượt bậc từ quy mô tuyển sinh từ 600 lên đến 1.850, một số lĩnh vực của Nhà trường được xếp hạng thế giới. Đặc biệt, lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ xếp hạng 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS.
GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường (bên trái) trao Nghị quyết ban hành chiến lược cho GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường
Có thể nói, Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn 2045 là niềm tin, trách nhiệm và sự đồng hành của Hội đồng Trường gửi gắm đến lãnh đạo Nhà trường. Chiến lược lần này tuy là sự thử thách, nhưng cũng là sự cam kết trách nhiệm của Nhà trường với ĐHQGHN và xã hội.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, điểm nổi bật trong Chiến lược là về quy mô đào tạo, phát triển các lĩnh vực để hoàn thiện cơ cấu đào tạo phù hợp với thời đại mới, xác định Trường ĐH Công nghệ sẽ vươn lên thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo tiên tiến của châu Á và một số lĩnh vực sẽ vào top 300 trên bảng xếp hạng thế giới năm 2035 và top 200 trên bảng xếp hạng thế giới vào năm 2045.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức phát biểu tại buổi lễ
Tại buổi Lễ, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, đã thay mặt Ban Giám hiệu trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp triển khai Chiến lược phát triển Trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, Chiến lược phát triển của Nhà trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 với sứ mệnh, khẩu hiệu hành động và các định hướng thể hiện hoài bão, ý chí của tập thể viên chức và người lao động Nhà trường quyết tâm, đồng lòng thực hiện các mục tiêu chiến lược, tiếp tục xây dựng và phát triển “Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN là một địa chỉ tin cậy trong đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật công nghệ chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài của đất nước, khu vực và thế giới”.
GS.TS Chử Đức Trình trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp triển khai Chiến lược phát triển Trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045
Lễ công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 đã diễn ra thành công. Chiến lược này vừa là mục tiêu, là thách thức nhưng cũng là động lực để Trường ĐH Công nghệ sẽ phát triển vượt bậc với các giá trị cốt lõi là uy tín, chất lượng cao – trình độ cao; trụ cột, tinh hoa và nhân văn; gắn đào tạo và nghiên cứu với thực tiễn và doanh nghiệp – với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khởi nghiệp – xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của phụ huynh và sinh viên, của ĐHQGHN và các thế hệ cha anh, với xã hội và đất nước. Thông qua chiến lược Trường ĐH Công nghệ sẽ thoát thai hoàn toàn từ cái áo Collge of Technology thuở ban đầu, thực sự trở thành University of Engineering and Technology – Trường đại học kỹ thuật công nghệ.
Những điểm mới căn bản nhất của Chiến lược:
Về Đào tạo: Bên cạnh các ngành, khoa như hiện nay, Trường sẽ phát triển thêm những lĩnh vực then chốt về yêu cầu nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 như (1) Cơ khí chế tạo máy; (2) Các khối ngành quản lý, quản trị kỹ thuật, công nghệ (quản lý năng lượng, kinh tế xây dựng, quản trị hệ thống công nghiệp, quản trị hệ thống thông tin, quản trị công nghệ,…); (3) Các lĩnh vực kỹ thuật công nghệ là vệ tinh của các công nghệ lõi mà xã hội đang rất cần và trường ĐH Công nghệ và Đại học Quốc Gia Hà Nội có thế mạnh nền tảng như Fintech, Logistics, Thiết kế công nghiệp và đồ họa, công nghệ bán dẫn, thiết kế chip và vi mạch,…
Theo Chiến lược phát triển, đến 2035, quy mô của trường ĐH Công nghệ có thể lên đến 20.000 sinh viên, với hơn 1200 cán bộ, giảng viên. Đến năn 2045, quy mô của trường lên 30.000 sinh viên với 1800 cán bộ giảng viên. Tỷ lệ kỹ sư và sau đại học sẽ chiếm tỷ lệ 35% trong tổng quy mô đào tạo của nhà trường.
Bên cạnh đó, sẽ đẩy mạnh hợp tác đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp để gắn với thực tiễn, và các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh để thúc đẩy trao đổi sinh viên và học giả quốc tế.
Sinh viên của trường phải giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, đẹp về trí tuệ, thể hình – có kỹ năng sống, nghị lực, hiểu và hành được minh triết và giàu tính nhân văn.
Về Khoa học Công nghệ: (1) Sẽ thúc đẩy mạnh mẽ và ưu tiên các nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao để có các sản phẩm quốc gia. (2) Tập trung xây dựng một số nhóm nghiên cứu mạnh trong Thiết kế chip và vi mạch, Khoa học máy tính, Trí tuệ nhân tạo, Cơ điện tử, Viễn thông, Công nghệ bán dẫn, Robotic, Vật liệu và kết cấu tiên tiến, Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông; Thiết kế, Tích hợp các hệ thống thông minh;…(3) Thành lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ của Nhà trường để có nguồn lực đầu tư cho tiềm lực khoa học công nghệ và con người (4) Xây dựng tạp chí khoa học công nghệ của trường lọt vào danh mục ISI của quốc tế. Công bố quốc tế trong danh mục các tạp chí quốc tế ISI có uy tín dự kiến sẽ đạt tối thiểu 700 bài ISI/năm vào năm 2035 và 1000 bài ISI vào năm 2045.
Đặc biệt đột phá về Cơ sở vật chất Chiến lược lần trước đề ra ở mức làm tốt công tác chuẩn bị lên Hòa Lạc. Thì lần này, điều chỉnh Chiến lược đề ra nhiệm vụ bắt tay ngay vào việc triển khai xây dựng các phòng thí nghiệm và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu của nhà trường trên Hòa Lạc, nhanh chóng biến Hòa Lạc thành tương lai và cơ hội phát triển mới của nhà trường, đồng hành cùng Đại học Quốc gia Hà Nội khai thác tối đa Hòa Lạc phục vụ cho phát triển của nhà trường trong giai đoạn mới.
Nhận lời mời của GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức và Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (ĐHCN), Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), ngày 22/11/2023, GS. John Ekaterinaris (USA) – Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (Q1, top 5%), đã sang thăm Trường ĐHCN để thực hiện một số trao đổi hợp tác trong nghiên cứu khoa học và có buổi chia sẻ về chủ đề “Construction of mode based reduced order models (ROM) for moving bodies” trong lĩnh vực cơ học chất lưu tại nhà E5.
Tham dự buổi nói chuyện có GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (CNXDGT) cùng lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, các nhà khoa học và nghiên cứu sinh của Khoa CNXDGT, Viện Hàng Không Vũ trụ, Khoa Công nghệ nông nghiệp, Khoa Cơ học Kỹ thuật & Tự động hóa và một số đơn vị nghiên cứu khác trong Trường.
Trong phần đầu của buổi nói chuyện, GS. John Ekaterinaris đã trình bày những nghiên cứu mới nhất liên quan đến Xây dựng mô hình giảm bậc (Reduced Order Models – ROM) cho các dòng khí động học phức tạp sử dụng phương pháp tách trực giao (Proper Orthogonal Decomposition – POD) kết hợp với mạng neural (Neural Networks – NN). Bên cạnh đó, với tư cách là tổng biên tập của tạp chí, GS. Ekaterinaris đã dành thời gian chia sẻ với sinh viên, giảng viên, nghiên cứu viên trẻ của Trường ĐH Công nghệ về chủ đề rất hữu ích “Làm thế nào để công bố trên tạp chí của Elsevier”.
GS. John Ekaterinaris (USA) – Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (Q1, top 5%)
Bài trình bày đã thu hút rất nhiều sự chú ý và thảo luận từ các nhà khoa học tham dự, mở ra cơ hội hợp tác đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực hàng không vũ trụ và ứng dụng các mô phỏng, cũng như thuật toán học máy, học sâu để giải quyết các vấn đề trọng điểm hiện đại của Kỹ thuật – Công nghệ giữa các nhà khoa học tại Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN với cộng đồng khoa học quốc tế.
Cùng ngày, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường và GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường đã tiếp và trao đổi với GS. John Ekaterinaris về chiến lược phát triển nhà trường, cũng như chính sách của Trường ĐH Công nghệ về việc thu hút các nhà khoa học trình độ cao, các chuyên gia có tầm ảnh hưởng quốc tế đến làm việc, hợp tác nghiên cứu mở ra những hướng nghiên cứu mới, hiện đại ở Trường ĐH Công nghệ trong những năm tới.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường (ngoài cùng, bên phải) và GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường (thứ hai, bên trái ảnh) đã tiếp và trao đổi với GS. John Ekaterinaris (thứ hai, bên phải ảnh) về chiến lược phát triển nhà trường, cũng như chính sách về việc thu hút các nhà khoa học trình độ cao, các chuyên gia
GS. John Ekaterinaris có hơn 50 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cơ học tính toán và Công nghệ Hàng không Vũ trụ.
GS John A. Ekaterinaris nhận bằng B.S. Tiến sĩ về Kỹ thuật Điện và Cơ khí tại Đại học Aristotle ở Thessaloniki, Hy Lạp vào tháng 10/1977. Bắt đầu nghiên cứu sau đại học ở Hoa Kỳ vào năm 1981 và lấy lại bằng Thạc sĩ về Kỹ thuật Cơ khí năm 1982 và bằng Tiến sĩ từ Trường Kỹ thuật Hàng không Vũ trụ năm 1987, cả hai đều tại Viện Công nghệ Georgia, Atlanta GA – USA.
Từ năm 1987 đến năm 1995, ông làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Cames của NASA tại Moffett Field CA, đồng thời là giảng viên tại Trường Sau đại học Hải quân tại Monterey CA. Ông đảm nhận vị trí Nhà khoa học nghiên cứu cấp cao tại Phòng thí nghiệm quốc gia RISOE ở Đan Mạch trong khoảng thời gian từ 1995 – 1997, nơi ông làm việc về năng lượng gió. Ông trở lại CA và làm việc tại Nielsen Engineering and Research (NEAR) từ 1997 – 2000.
Vào tháng 10/2000, ông đảm nhận vị trí Giám đốc Nghiên cứu tại FORTH/IACM và giữ chức vụ này cho đến năm 2005. Vào tháng 9/2005, ông gia nhập khoa Cơ khí và Kỹ thuật Hàng không Vũ trụ tại Đại học Patras. Ông gia nhập giảng dạy tại Đại học Hàng không Embry-Riddle vào tháng 8/ 2012.
Mối quan tâm của ông là cơ học tính toán (bao gồm khí động học, từ khí động học, điện từ, âm học, chuyển đổi dòng chảy, nghiên cứu nhiễu loạn và tương tác cấu trúc dòng chảy), các phương pháp bậc cao cho PDE, hiện tượng đa cấp độ, PDE ngẫu nhiên, cơ sinh học và gần đây là học máy và định lượng độ không đảm bảo. Ông là tác giả của hơn 60 bài báo. Ông là thành viên của Viện Hàng không và Du hành vũ trụ Hoa Kỳ (AIAA), nơi ông từng là thành viên của Ủy ban Kỹ thuật Cơ học Bay và Động lực học Chất lỏng, đồng thời là cộng tác viên của AIAA từ năm 1985.
Ông đã thực hiện nghiên cứu được tài trợ ở Hoa Kỳ và Châu Âu với Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) và thông qua các chương trình khung của EU. Ông cũng thực hiện nghiên cứu được tài trợ bởi các văn phòng của AFOSR và ARO. Ông là phó biên tập của Tạp chí Tiến bộ về Khoa học Hàng không Vũ trụ (JPAS) và là tổng biên tập của Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (AESCTE) – đều là những tạp chí hàng đầu của quốc tế trong lĩnh vực này.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã chỉ ra 4 thành tựu tiêu biểu sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ mạng lưới đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Ông là chuyên gia hàng đầu về vật liệu và kết cấu tiên tiến, đã công bố hơn 300 bài báo, công trình khoa học và là thành viên hội đồng quốc tế của 10 tạp chí quốc tế ISI có uy tín, là một trong những nhà khoa học xuất sắc góp phần định danh nền khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam trên bản đồ KHCN thế giới.
Liên tục trong 5 năm liền, từ 2019 đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong 2 nhà khoa học đang làm việc ở Việt Nam vào top 10.000 các nhà khoa học có ảnh hưởng hàng đầu thế giới và xếp hạng top 100 thế giới trong lĩnh vực Engineering and Technology.
Nhân dịp này, PV có bài phỏng vấn GS về những thành tựu và thách thức với giáo dục đại học Việt Nam sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29.
– Thưa GS, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, ông đánh giá những điểm được/chưa được của giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết này?
Đây là Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp chấn hưng giáo dục của nước nhà. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh CNH-HĐH và thế giới bước sang kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0. Với 7 mục tiêu đã nêu ra trong Nghị quyết, có thể thấy đều là những mục tiêu và nội hàm quan trọng, cơ bản, cốt lõi, nền tảng – rất hiện đại và hội nhập, rất đúng, trúng và kịp thời.
Đã có nhiều hội nghị, hội thảo tổng kết và đánh giá về kết quả thực hiện NQ 29 ở những góc độ khác nhau. Thành tựu thì rất nhiều, riêng với giáo dục đại học Việt Nam, tôi thấy nổi bật lên 4 thành tựu tiêu biểu nhất như sau:
Trước hết, có thể đánh giá giáo dục đại học Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.Có thể thấy chưa bao giờ giáo dục của Việt Nam đổi mới nhanh và mạnh mẽ, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế như những năm qua. Minh chứng rõ nhất cho nhận định này là những kết quả trong việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học.
Đến nay, hầu hết tất cả các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng; 7 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đã được thành lập và được Bộ cấp phép hoạt động.
Tính đến ngày 30/9/2023, cả nước đã có 186 cơ sở giáo dục đại học và 11 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam, chiếm hơn 70% tổng số các trường đại học, học viện trong cả nước; 9 cơ sở giáo dục đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá/kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA); có 1.297 chương trình đào tạo đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá; 1.143 chương trình đào tạo đã được kiểm định, đánh giá ngoài và 996 chương trình đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng. Chỉ trong vòng mấy năm gần đây, số các chương trình đào tạo được kiểm định đã tăng lên rất nhanh, gấp khoảng 8 lần so với năm 2020.
Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài, nhà trường thấy được điểm mạnh, điểm yếu và xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực, hiệu quả hơn. Các cơ sở giáo dục đã thay đổi cách nhìn nhận về công tác đảm bảo chất lượng, tăng cường năng lực quản lí nhà trường, quản lí dạy, học.
Nếu kiểm định phản ánh chất lượng thì xếp hạng đại học nói lên đẳng cấp. Từ năm 2018, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục đại học Việt Nam, mới có 2 ĐHQG có tên trong danh sách xếp hạng 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS, thì nay, đại học Việt Nam đã có tên trong nhiều bảng xếp hạng uy tín của quốc tế như QS, THE, ARWU. Mới đây, tổ chức xếp hạng THE ranking đã công bố xếp hạng đại học tốt nhất thế giới năm 2023, có 6 trường đại học Việt Nam lọt thứ hạng khá cao trong bảng xếp hạng này là: Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân; trong đó một số ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong tốp 500-1000 thế giới…
Chuyển biến đột phá về chất lượng, tiềm lực KHCN. Cách đây 10 năm, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường đại học của cả nước trung bình mới đạt khoảng 15%, thì nay, tỉ lệ này đã tăng gấp hơn 2 lần, đạt khoảng 32%. Số lượng, chất lượng đội ngũ tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, GS, PGS không yêu cầu bắt buộc về công bố quốc tế, thì nay, tiêu chuẩn chức danh bắt buộc yêu cầu GS, PGS đều phải có công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín.
Đến nay, trong các cơ sở giáo dục đại học trên cả nước có khoảng hơn 1.000 nhóm nghiên cứu, trong đó có hàng trăm nhóm nghiên cứu mạnh, và từ các nhóm nghiên cứu mạnh đã tiến tới thành lập một số phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc, có vai trò dẫn dắt trong hoạt động khoa học công nghệ của quốc gia.
Chất lượng của người học về chuyên môn, ngoại ngữ và tin học đều được yêu cầu cao hơn so với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ, đến nay đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc đại học là B1, với các chương trình quốc tế, tài năng, chất lượng cao sinh viên còn đạt chuẩn đầu ra cao hơn; yêu cầu ngoại ngữ đầu vào với bậc sau đại học hiện nay là B2 với cả bậc đào tạo thạc sĩ và tiến sỹ. Tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm được ngày càng tăng, đặc biệt sinh viên Việt Nam ngày càng tích cực tham gia thị trường lao động của toàn cầu, các công ty đa quốc gia trong nước và ở nước ngoài.
Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu, cho các nhóm nghiên cứu, công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng mạnh. Từ vị trí 59 (số bài báo là 4.017) năm 2014 đã vươn lên thứ 46 thế giới (số lượng bài báo là 18.466) năm 2022. Tổng số lượng bài báo quốc tế của Việt Nam là 97.520 bài trong giai đoạn 2014-2022 (nguồn:www.scimagojr.com). Không chỉ tăng về số lượng mà cả về chất lượng, chỉ số trích dẫn các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cũng ngày càng tăng. Mấy năm gần đây, một số nhà khoa học Việt Nam cũng đã có tên trong bảng xếp hạng các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng của thế giới được quốc tế đánh giá và bình chọn khách quan. Đây là những chuyển biến quan trọng về chất lượng đội ngũ, là kết quả rất đáng tự hào của giáo dục đại học Việt Nam.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nhân tài; chuyển dịch nhanh và mạnh mẽ cơ cấu ngành nghề đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. Thực hiện NQ 29, bên cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ GDĐT đã chỉ đạo các trường đại học tích cực triển khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Đội ngũ giảng viên tham gia các chương trình này được chọn là những giảng viên ưu tú của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài, nhằm phát triển, quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu. Bên cạnh đó, với chương trình 322, 911, Đề án 89, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ, ưu tú đi học đại học, thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đang tạo ra những cơ hội cũng như thách thức với Việt Nam. Giáo dục đại học Việt Nam đang tích cực chuyển đổi số, khối kiến thức STEM ngày càng được chú trọng ở bậc đại học. Bên cạnh đó đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nhanh và phù hợp. Tính từ đầu năm 2016 đến 8 tháng đầu năm 2023, tổng số ngành mở mới ở trình độ ĐH khoảng gần 300 ngành cho thấy giáo dục đại học của Việt Nam đang đi nhanh và đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0.
Tự chủ đại học được triển khai nhanh chóng, sâu rộng và trên nhiều mặt, nhất là sau khi Quốc hội ban hành Luật 34 năm 2018 về Luật giáo dục đại học sửa đổi. Thi hành Luật số 34, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Những chính sách về tự chủ đại học như luồng gió mới làm thay đổi hẳn diện mạo và cách thức quản trị đại học trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Bộ GDĐT, đến cuối năm 2022 có tổng cộng 141/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học. Và đến tháng 8/2023, chỉ còn 4 trường đại học công lập chưa thành lập và 2 trường đại học tư thục chưa kiện toàn hội đồng trường.
Thành tựu quan trọng nhất của tự chủ đại học trong thời gian qua là “cởi trói” cho các trường, từ đó tạo cơ chế để các trường chủ động thu hút và thúc đẩy tăng mạnh mẽ các nguồn lực để đầu tư cho chất lượng và phát triển. Gắn tự chủ với tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các trường. Tự chủ đại học đã thực sự là bước đột phá góp phần quan trọng nâng cao tiềm lực KHCN, nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng đội ngũ và chất lượng các hoạt động KHCN của các trường đại học trong vòng mấy năm qua, từ đó đẩy nhanh xếp hạng đại học, làm gia tăng nhanh chóng tiềm lực con người, cơ sở vật chất và năng lực hội nhập quốc tế của các trường đại học Việt Nam.
Tóm lại, trong khoảng 5 năm gần đây, việc thực hiện Nghị quyết 29 đã được các trường đại học tích cực triển khai toàn diện, mạnh mẽ và từ đó giáo dục đại học Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu rất quan trọng. Đó là giáo dục đại học của chúng ta đã hội nhập và theo chuẩn mực của quốc tế; đẩy mạnh tự chủ đại học, có sự đột phá về chất lượng và có sự chuyển mình mạnh mẽ về chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Những thành tựu đổi mới đó tác động đến toàn bộ hoạt động của ngành giáo dục, và sâu xa hơn, đến toàn thể xã hội, chi phối và làm đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục của nước nhà.
Tôi thấy thành quả lớn lao nhất là từ chính những đổi mới đó, trong hệ thống giáo dục đại học, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận và nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của đất nước trong giai đoạn mới.
– Thưa GS, bên cạnh những thành tựu, theo ông, còn những hạn chế nào và để thực hiện tốt hơn nữa NQ29, thời gian tới cần có những giải pháp nào để thúc đẩy giáo dục đại học Việt Nam tiến nhanh và mạnh hơn nữa?
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn những thiếu sót, hạn chế.
Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chúng ta phải nâng cao chất lượng và làm tốt ở tất cả các khâu: tuyển sinh đầu vào; chương trình đào tạo; tổ chức giảng dạy và quản lí đào tạo, quản trị đại học (bao gồm các điều kiện đảm bảo chất lượng; đội ngũ, cơ sở vật chất, kiểm tra đánh giá); và chuẩn đầu ra.
Đáp ứng một số chuẩn đầu ra của sinh viên Việt Nam như ngoại ngữ, tư duy và năng lực phản biện, kĩ năng nghề nghiệp còn thấp. Nhiều chương trình đào tạo còn thiếu gắn kết với nghiên cứu và thực hành, thực tiễn. Chất lượng giảng viên trong một số trường, một số lĩnh vực còn yếu và thiếu.
Đặc biệt là đầu tư cho giáo dục đại học còn thấp; đầu tư cho nghiên cứu, cho các nhóm nghiên cứu dàn trải và kinh phí nhỏ giọt, trong khi thủ tục xét, giao đề tài chậm, thanh quyết toán lại rườm rà. Cơ chế hợp tác với các doanh nghiệp, đầu tư của doanh nghiệp cho đại học cũng còn nhiều rào cản.
Việc áp lực thi cử, tạo điều kiện cho các trường tự chủ, cho tất cả các em thí sinh hầu như ai cũng được đỗ đại học, đã nảy sinh nhiều vấn đề như: quá nhiều phương án và tổ hợp xét tuyển; chất lượng tuyển sinh đầu vào một số trường đại học và nhiều ngành còn thấp. Trong thời gian tới phải tiếp tục nghiên cứu và cải tiến, đổi mới mạnh hơn nữa công tác tuyển sinh; phát huy vai trò cầm trịch về mặt bằng chất lượng đầu vào đại học của cơ quan quản lí Nhà nước.
Một điểm nữa không thể không nhắc đến là tự chủ đại học. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà tự chủ đại học mang lại trong thời gian qua, cũng phải thừa nhận đây là mô hình triển khai rất mới mẻ ở Việt Nam và cần phải tiếp tục hoàn thiện.
– Được biết, năm nay GS tăng xếp hạng từ top 94 lên hạng thứ 85 thế giới trong lĩnh vực Engineering và Technology. Chia sẻ của GS về thành tích này?
Tôi bất ngờ và thấy rất vui và tự hào. Sự kiên trì, bền bỉ làm việc và miệt mài nghiên cứu suốt mấy chục năm qua cuối cùng cũng được ghi nhận và đền đáp.
Nhà khoa học cống hiến không vì để xếp hạng, không phải vì hư danh, nhưng được quốc tế đánh giá, xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín một cách công bằng và khách quan là một niềm tự hào, vinh dự. Nếu không có cơ sở dữ liệu để đánh giá, định lượng kết quả nghiên cứu của nhà khoa học và ảnh hưởng của nó theo các chuẩn mực quốc tế, Việt Nam chúng ta sẽ không biết được mình đang ở đâu so với các đồng nghiệp quốc tế, và không biết bao giờ các bạn trẻ tài năng và nỗ lực vượt bậc mới được thừa nhận, được tôn vinh, để từ đó có thêm động lực và niềm tin tiếp tục phấn đấu, dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học đầy gian truân.
Thành công của tôi cũng là thành công và niềm vui của nhóm nghiên cứu, của các thế hệ học trò và cũng là niềm vui và thành công của nhà trường, của Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tôi cho rằng việc các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế cũng là niềm tự hào, là minh chứng về thành tựu của nền Giáo dục Đại học và Khoa học của Việt Nam.
Ở vòng chung kết của cuộc thi Thiết kế thực tế ảo lần thứ 13 – The 13th Student BIM&VR Design World Cup diễn ra tại Nhật Bản từ ngày 08-10/11/2023, hai nhóm sinh viên của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đều xuất sắc giành Giải thưởng do giám khảo bình chọn (Honorable Judge Award).
The 13th Student BIM&VR Design World Cup là cuộc thi thường niên dành riêng cho thiết kế do công ty FORUM8 (Nhật Bản) tổ chức cho sinh viên trên toàn thế giới. Cuộc thi năm nay bắt đầu từ tháng 06/2023 với 52 đội tham dự (đến từ 9 nước, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Newzealand, Myanmar, Thái Lan, Lào) để chọn ra 9 đội vào vòng chung kết diễn ra tại Nhật Bản.
Chủ đề của cuộc thi năm 2023 là “Hai thay đổi lớn tại nơi sở hữu cảnh quan nguyên thủy của Nhật Bản – Tính di động và Phong cách sống ở thành phố Ena trong tương lai”. Đây được coi là thách thức lớn đối với sinh viên nhưng các đội tham dự vòng chung kết đều đã có những giải pháp hay và mang tính sáng tạo cao. Dưới sự hỗ trợ của bà Trần Thị Luyến (Công ty Forum8 Việt Nam), hai đội của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, Trường ĐH Công nghệ gồm Big Bang (Lê Khánh Toàn – Đội trưởng, Lê Đức Trung, Lê Anh Nhật, Trịnh Quang Minh, Nguyễn Nam Khánh) với dự án The Circle City và Dream Team (Nguyễn Đăng Hải – Đội trưởng, Nguyễn Tiến Anh, Nguyễn Thị Hương, Trần Xuân Thành) với dự án The Memorial Sakura City đều được ban giám khảo đánh giá rất cao năm nay.
Thành công này một lần nữa cho thấy chất lượng đào tạo tại Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN sự lớn mạnh không ngừng của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (của Ngành Kỹ sư Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng) sau 5 năm hình thành, phát triển và dẫn dắt bởi người sáng lập GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.