Sáp nhập đại học: Không nên “ghép cơ học” mà tái cấu trúc chiến lược để hình thành đại học mạnh

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng, sáp nhập không phải là “ghép cơ học” mà là tái cấu trúc chiến lược để hình thành những đại học mạnh, liên ngành, tự chủ, có trách nhiệm giải trình cao.

Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp nhằm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo được nhấn mạnh tại Nghị quyết là triển khai sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn; xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả.

Tại Hội nghị Giáo dục đại học, do Bộ GD-ĐT vừa qua, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn cũng nhấn mạnh việc chúng ta đang chuẩn bị một “cuộc đại sắp xếp” các cơ sở giáo dục đại học. Việc tái cấu trúc, sắp xếp sẽ thực hiện bằng tinh thần quyết tâm cao độ.

Thời cơ chưa từng có để chúng ta mạnh dạn cải tổ lại hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, việc sáp nhập các trường đại học hiện nay xuất phát từ yêu cầu cần tập trung nguồn lực để giáo dục đại học Việt Nam có những phát triển đột phá và cất cánh trong kỷ nguyên mới, với những kỳ vọng lớn lao về khoa học công nghệ và giáo dục đại học của Việt Nam.

Sáp nhập sẽ giúp tránh dàn trải, trùng lặp ngành/chương trình, đặc biệt ở những cơ sở quy mô nhỏ, hiệu quả thấp, đồng thời góp phần nâng tầm cạnh tranh quốc tế.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội

“Từ việc sáp nhập này sẽ hình thành các trường đại học đa ngành quy mô đủ lớn, có hệ sinh thái nghiên cứu-đổi mới, tăng cơ hội vào các bảng xếp hạng và thu hút học giả, sinh viên quốc tế”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay.

Theo ông, sáp nhập cũng sẽ thúc đẩy tự chủ và trách nhiệm giải trình: mô hình ít đầu mối giúp hoạch định chiến lược, tài chính, nhân sự đồng bộ hơn, gắn KPI minh bạch. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, việc sáp nhập giúp thuận lợi trong việc chuyển đổi số – liên ngành: kết hợp năng lực số, dữ liệu, phòng thí nghiệm, thư viện, để giải quyết các bài toán liên ngành (AI–VLKT-y sinh-môi trường…).

Sáp nhập theo nghị quyết 71/TW cũng phục vụ phát triển vùng/ngành: sắp xếp mạng lưới giáo dục đại học để mỗi đại học có “sứ mệnh” rõ ràng với địa phương/ngành mũi nhọn.

“Vì vậy, tôi cho rằng đây là thời điểm chín muồi, là thời cơ chưa từng có để chúng ta mạnh dạn cải tổ lại hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, cũng như tập trung phát triển khoa học công nghệ và tăng cường chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, là một trong những biện pháp hiệu quả và thiết thực để góp phần thực hiện thành công nghị quyết 71 và nghị quyết 57/TW”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.

Tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động

Liên quan đến những lợi ích về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học khi tiến hành sáp nhập các trường đại học, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, suy cho cùng mục đích cao nhất của việc sáp nhập, cải tổ chính là nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường đại học, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu; nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị của các trường đại học.

Cụ thể, về đào tạo sẽ giúp chuẩn chương trình thống nhất, chia sẻ học liệu – giảng viên giỏi, mở ngành liên ngành; tăng học phần chọn, tín chỉ linh hoạt giữa các trường thành viên.

Về nghiên cứu, thông qua sáp nhập tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ của các trường; hợp lực nhóm mạnh, dùng chung phòng thí nghiệm/thiết bị; tăng công bố và thuận lợi hơn khi triển khai các đề tài lớn; dễ thành lập trung tâm xuất sắc (CoE), doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Đồng thời, tăng năng lực cạnh tranh cho trường đại học sau khi sáp nhập: quy mô lớn hơn, thương hiệu lớn, một đầu mối đối ngoại – hợp tác – xếp hạng, tăng khả năng gọi tài trợ, học bổng, dự án quốc tế.

Về quản trị – nguồn lực, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đánh giá việc sáp nhập sẽ cắt bỏ các lớp trung gian; sử dụng nguồn lực chung, cả những nguồn lực hữu hình (con người, cơ sở vật chất, thiết bị) và vô hình. Bên cạnh đó, gom mua sắm, cải thiện dịch vụ, hạ tầng IT; giảm chi phí cố định; dữ liệu quản trị tập trung.

Sinh viên một trường đại học tại Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Liên

Cần thống nhất nguyên tắc xử lý: “không ai bị bỏ lại phía sau”

Hiện nay, một số ý kiến lo ngại việc sáp nhập sẽ dẫn đến xáo trộn tổ chức, ảnh hưởng đến quyền lợi của giảng viên, sinh viên.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhìn nhận, những băn khoăn lo ngại này là tâm lý chung khi sáp nhập và có cơ sở như: lo ngại thay đổi cơ cấu, vị trí việc làm, thói quen, thu nhập; điều chuyển nhiệm vụ, chuẩn đánh giá mới; mức độ hòa hợp và hội nhập về văn hóa truyền thống của các trường sau khi sáp nhập.

Để hóa giải những lo ngại này và làm tốt công tác sáp nhập, ông cho rằng cần thống nhất nguyên tắc xử lý: “không ai bị bỏ lại phía sau”, cùng với sự minh bạch và phân chia theo từng giai đoạn.

Sau sáp nhập, tái cấu trúc, các trường cần khẩn trương xây dựng lại vị trí việc làm, mô tả chức năng, tiêu chuẩn học thuật. Đồng thời, thiết lập cơ chế đánh giá cũng như điều chỉnh độc lập, công khai và minh bạch; đặc biệt là cơ chế tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ (phải lường được những tình huống khá phức tạp như có trường đã tự chủ sáp nhập vào trường chưa tự chủ và ngược lại).

“Các trường đại học là môi trường học thuật, nên sáp nhập khác với doanh nghiệp và các cơ quan hành chính. Vì vậy, với giảng viên cần tôn trọng thâm niên, thành tích và trong sự thống nhất, chấp nhận cả sự khác biệt. Chúng ta cũng cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với nâng chuẩn, hỗ trợ nghiên cứu; giữ ổn định thu nhập trong thời gian chuyển tiếp”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đề xuất.

Với sinh viên, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, cần bảo toàn quyền lợi học tập, ví dụ khung chương trình đang đào tạo, số tín chỉ, bảo toàn học phí đang thực hiện,… và có kế hoạch từng bước thống nhất chuẩn chương trình đào tạo sau sáp nhập.

Đặc biệt, cần đẩy mạnh truyền thông, tham vấn, đối thoại thường xuyên để mọi khúc mắc đều được kịp thời xem xét và giải quyết, đảm bảo đoàn kết nội bộ. Từ đó, xây dựng Chiến lược phát triển mới cho trường đại học sau sáp nhập.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh tinh thần chung: sáp nhập không phải là “ghép cơ học” mà là tái cấu trúc chiến lược để hình thành những đại học mạnh, liên ngành, tự chủ, có trách nhiệm giải trình cao.

“Thành công của cuộc “cải tổ” này phụ thuộc vào thiết kế thể chế, mô hình quản trị, dữ liệu minh bạch, lộ trình nhân văn và cam kết đặt chất lượng – con người – sứ mệnh quốc gia ở vị trí trung tâm”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nói.

Ngày 21/9, Ban Chỉ đạo của Chính phủ ban hành Kế hoạch về sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bên trong hệ thống hành chính nhà nước.

Theo Kế hoạch này, Việt Nam sẽ xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh đó, sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học. Sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn. Xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả. Nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với các cơ sở giáo dục đại học, chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý.

Ngày 18/9, phát biểu tại Hội nghị Giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, việc tái cấu trúc sắp xếp các cơ sở giáo dục đại học sẽ thực hiện bằng tinh thần quyết tâm cao độ.

Về việc các cơ sở giáo dục sẽ phải sắp xếp như thế nào để giảm đầu mối, Bộ trưởng cho biết, với các trường ngoài công lập sẽ tự giải quyết; các cơ sở giáo dục khối công an, quân đội về cơ bản sẽ do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện. Trừ đi các số này, hiện còn tổng cộng khoảng 140 trường đại học công lập.

“Sẽ không công bố con số sẽ giảm bao nhiêu hoặc còn lại bao nhiêu phần trăm nhưng chắc chắn sẽ giảm sâu trong thời gian tới. Kịch bản phía trước sẽ có nhiều phương án diễn ra. Có thể các trường thuộc khối Trung ương quản lý sẽ về địa phương quản lý. Có thể trường thuộc khối địa phương nhập về khối Trung ương. Có thể trường khối Trung ương nhập vào nhau hoặc một số trường sẽ giải tán nếu quy mô quá nhỏ, các tiêu chuẩn không đáp ứng. Đặc biệt, các số trường gần nhau về lĩnh vực sẽ nhập vào để khắc phục tình trạng manh mún nhỏ lẻ và không phát triển được. Ban chỉ đạo của Bộ GD-ĐT sẽ lên phương án, báo cáo Thủ tướng sau đó triển khai”, Bộ trưởng cho hay.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, tương tự công cuộc sắp xếp lại các tỉnh thành, việc sắp xếp lại các cơ sở giáo dục chắc chắn phải thực hiện. Việc tái cấu trúc, sắp xếp các đầu mối của các trường hệ thống công lập sẽ thực hiện bằng hình thức lên kế hoạch, yêu cầu thực thi; tuy nhiên phải có tính toán để làm sao sau khi tái cấu trúc làm các trường sẽ mạnh lên, không phải cốt để giảm đầu mối

Thậm chí, có trường chưa phải trường lớn, nhưng xét về địa chính trị, vị trí thì vẫn giữ lại và buộc trường phải “lớn càng nhanh càng tốt”.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Làm khoa học cần có tố chất của đại bàng

Các thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh luôn được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức kể câu chuyện chim đại bàng – chúa tể bầu trời, thể hiện khát khao chinh phục đỉnh cao khoa học của người làm nghiên cứu.

Trong bối cảnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang trở thành động lực then chốt của mọi quốc gia, Việt Nam chúng ta đứng trước thời cơ vàng: nếu dám nghĩ lớn, làm thật, đầu tư “tới tầm và xứng tầm”, biết kết nối sức mạnh của trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách công nghệ, chinh phục những lĩnh vực lõi và khẳng định vị thế trên bản đồ tri thức thế giới. Gặp gỡ GS. TSKH Nguyễn Đình Đức (Trường ĐH Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) 7 năm liên tiếp trong danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.

GS Nguyễn Đình Đức, dấu ấn nhà khoa học Việt lọt top 10.000 thế giới

Với hơn 40 năm cống hiến cho nghiên cứu vật liệu và kết cấu tiên tiến, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tiếp tục khẳng định vị thế khoa học Việt trên bản đồ quốc tế

Ngày 19/9/2025, Tạp chí PLoS Biology (Hoa Kỳ) công bố bảng xếp hạng thường niên các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, được xây dựng bởi nhóm chuyên gia Đại học Stanford (Mỹ) dựa trên cơ sở dữ liệu Scopus.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm việc với các sinh viên trong nhóm nghiên cứu. Ảnh: NVCC.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường, đã vươn lên xếp hạng 51 trong lĩnh vực Engineering của thế giới.

Đặc biệt, đây là năm thứ 7 liên tiếp (2019–2025), GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được ghi nhận trong bảng xếp hạng này, khẳng định sự bền bỉ, nỗ lực nghiên cứu không ngừng nghỉ và vị thế học thuật ngày càng vững chắc của GS trong cộng đồng khoa học quốc tế.

NGƯỜI TIÊN PHONG NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU, KẾT CẤU TIÊN TIẾN CỦA VIỆT NAM

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong những nhà khoa học tiêu biểu hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu, kết cấu tiên tiến và composite, với hơn 40 năm nghiên cứu và giáo dục.

GS Nguyễn Đình Đức báo cáo tại Phiên toàn thể Hội nghị quốc tế tại ĐH Yonsei, Hàn Quốc. Ảnh: NVCC.

Một trong những đóng góp nổi bật của ông là công trình nghiên cứu về vật liệu composite ba pha carbon-carbon có cấu trúc không gian 3D/4D, vừa siêu nhẹ, vừa siêu bền cơ học và siêu chịu nhiệt. Đây là loại vật liệu chiến lược được ứng dụng trong nhiều ngành như hàng không, hàng hải, quốc phòng, ứng dụng trong công nghệ đóng tàu và các sản phẩm dân dụng.

Ông cũng là người tiên phong nghiên cứu các vật liệu chức năng có cơ tính biến đổi (FGM – Functionally Graded Materials), vật liệu nano composite, auxetic (có hệ số Poisson âm), pentagraphene và các loại vật liệu thông minh, phù hợp với điều kiện chịu nhiệt cao, chịu môi trường khắc nghiệt. Các hướng này đặt ông vào vị trí dẫn đầu các nghiên cứu tiên tiến mà nhiều nước phát triển đang theo đuổi.

Về công bố khoa học, GS Đức đã công bố khoảng 400 công trình khoa học, trong đó hơn 200-250 bài đăng trên các tạp chí quốc tế ISI/SCI/SCIE. Chỉ riêng giai đoạn 2020-2025, ông là tác giả của nhiều bài ISI thuộc nhóm Q1, Q2; nhiều bài thuộc top 5% tạp chí ISI toàn cầu.

Một thành tựu ứng dụng đáng chú ý là bằng sáng chế về composite ba pha có sợi thủy tinh và các hạt nano, được sử dụng thành công để chống thấm đà máy tàu thủy. Việc này không chỉ mang lại giá trị thực tiễn, mà còn có giá trị kinh tế cao.

Bên cạnh nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức còn là người xây dựng mô hình đào tạo và nghiên cứu mạnh mẽ. Ông sáng lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN), khởi xướng chương trình đào tạo kỹ thuật xây dựng (Civil Engineering) thạc sĩ tại Trường Đại học Việt Nhật (VJU). Ông cũng là người hướng dẫn nhiều tiến sĩ, thu hút học viên cao học và nghiên cứu sinh trong và ngoài nước tham gia các đề tài nghiên cứu tiên tiến.

Với những đóng góp đó, tên tuổi GS Đức đã được quốc tế ghi nhận: liên tục nằm trong danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới (do PLoS Biology công bố), và được xếp hạng cao trong lĩnh vực Kỹ thuật & Công nghệ.

“ĐÃ LÀM KHOA HỌC LÀ PHẢI DÁM CHẤP NHẬN HY SINH VÀ THIỆT THÒI”

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ rằng, con đường đến với khoa học của ông trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn và thử thách. Những thành tựu đạt được hôm nay là kết quả của lòng kiên trì, nghị lực bền bỉ cùng với sự đồng hành, ủng hộ của nhà trường và đồng nghiệp.

Điều khiến ông cảm thấy tự hào nhất là đã gây dựng được một nhóm nghiên cứu mạnh, thành lập các phòng thí nghiệm, khoa và ngành đào tạo mới tại nhiều trường đại học. Tiêu biểu là Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông thuộc Trường Đại học Công nghệ, hay ngành Civil Engineering tại Trường Đại học Việt Nhật.

Từ những nền tảng này, ông đã góp phần hình thành và phát triển trường phái khoa học về vật liệu composite tiên tiến, tạo được uy tín tại Đại học Quốc gia Hà Nội và được cộng đồng khoa học trong nước, quốc tế ghi nhận.

Hơn hết, trên cương vị một nhà giáo, ông đã đào tạo và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ học trò giỏi giang, thành đạt, trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

GS Nguyễn Đình Đức cũng nhận định rằng, thế hệ các nhà khoa học trẻ ngày nay có nhiều thuận lợi hơn so với trước đây: được đào tạo bài bản, có điều kiện tu nghiệp và bồi dưỡng ở nước ngoài, với khả năng hội nhập quốc tế cao. Ông nhắn nhủ: “Tôi luôn mong các bạn trẻ có sự kiên trì và bền bỉ, không chạy theo hư danh. Đã làm khoa học là phải dám chấp nhận hy sinh và thiệt thòi”

Chia sẻ về việc được ghi nhận trong bảng xếp hạng năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, ông và các nhà khoa học không làm việc vì mục tiêu thứ hạng, nhưng sự xuất hiện trong bảng xếp hạng quốc tế vẫn là sự ghi nhận khách quan, công bằng và có ý nghĩa động viên lớn.

Điều quan trọng hơn là bảng xếp hạng là nguồn động viên lớn, tiếp thêm niềm tin và khát vọng cho các thế hệ học trò và các nhà khoa học trẻ tiếp tục dấn thân, hội nhập và chinh phục đỉnh cao tri thức.

Tiểu sử

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sinh năm 1963 tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội). Từ những năm còn đi học, ông đã sớm bộc lộ tư chất thông minh và năng lực học tập vượt trội.

Năm 1984, ông tốt nghiệp thủ khoa Khoa Toán – Cơ, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Một năm sau, ông tham gia kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh đi nước ngoài do Bộ Đại học tổ chức và xuất sắc giành vị trí thủ khoa với số điểm cao nhất.

Từ năm 1985, ông được cử sang Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov để thực hiện nghiên cứu sinh. Năm 1991, khi mới 28 tuổi, ông bảo vệ thành công xuất sắc luận án Tiến sĩ Toán – Lý. Sáu năm sau, năm 1997, ở tuổi 34, ông tiếp tục bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga – một cột mốc quan trọng khẳng định tài năng và bản lĩnh khoa học.

Với thành tích nổi bật này, ông từng được Trường Đại học Clemson (Hoa Kỳ) mời sang làm trợ giảng. Thay vì chọn con đường lập nghiệp ở nước ngoài, GS Nguyễn Đình Đức quyết định trở về Việt Nam, với mong muốn góp phần xây dựng ngành khoa học composite còn non trẻ, đồng thời đào tạo và truyền lửa cho thế hệ trí thức trẻ trong nước.

Theo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Hai nhà khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục lọt vào top 10.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025

Mới đây, Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ vừa công bố danh sách xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới. Có 9 nhà khoa học Việt Nam công tác tại các trường đại học trong nước, trong đó có 2 nhà khoa học của ĐHQGHN nằm trong nhóm 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới, đó là GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường ĐH Công nghệ được xếp thứ 5.750 và GS.TS Trần Xuân Bách, Trường ĐH Y Dược được xếp thứ 5.085. Đây cũng là 2 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong 7 năm liên tiếp từ 2019 đến nay.

GS.TS Trần Xuân Bách (trái) được xếp thứ 5.085 và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được xếp thứ 5.750 trong bảng xếp hạng của Tạp chí PLoS

Danh sách này được xây dựng bởi nhóm các nhà khoa học của Đại học Stanford (Mỹ), dựa trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus. Cách đánh giá của các chuyên gia dựa trên các chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học: tổng số trích dẫn (không bao gồm tự trích dẫn), chỉ số Hirsch h-index, chỉ số Schreiber hm-index, số trích dẫn cho các bài báo với tư cách tác giả duy nhất (single author), tác giả chính (first author, corresponding author) và tác giả cuối cùng (last author).
Kết quả này được cập nhật từ cơ sở dữ liệu của hơn 7 triệu nhà khoa học được trích dẫn từ nguồn dữ liệu của Scopus. Danh sách được phân loại thành 22 lĩnh vực khoa học và 174 lĩnh vực con theo chuẩn phân loại Science-Metrix.
Nếu một nhà khoa học có tên trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu theo xếp hạng Stanford – Elsevier năm 2025, điều đó có nghĩa là lĩnh vực của họ đang có ảnh hưởng rất lớn, được nhiều đồng nghiệp trên thế giới tham khảo và đánh giá cao vì tính quan trọng và hữu ích trong lĩnh vực nghiên cứu.
Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã vươn lên xếp hạng 51 trong lĩnh vực Engineering, GS.TS Trần Xuân Bách xếp hạng 113 trong y tế cộng đồng.
Những kết quả đáng tự hào này một lần nữa tiếp tục khẳng định vị thế của các nhà khoa học của ĐHQGHN được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với trình độ và các hương nghiên cứu tiên tiến của thế giới. 
Nguồn: https://elsevier.digitalcommonsdata.com/datasets/btchxktzyw/8

NHỮNG ĐIỂM ĐỔI MỚI RẤT MẠNH DẠN VÀ QUYẾT LIỆT TRONG NGHỊ QUYẾT SỐ 71-NQ/TW

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Ông kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ đưa giáo dục Việt Nam, giáo dục đại học Việt Nam “cất cánh”.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết 71 được ví như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam. Văn kiện đặt mục tiêu đến năm 2035 có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học lọt top 100 thế giới, bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các trường, ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho đội ngũ nhà giáo. Đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và ứng dụng AI có trách nhiệm trong giảng dạy, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho khát vọng phát triển đất nước đến 2045.

Những điểm mới, đột phá nhất của Nghị quyết số 71-NQ/TW

Thưa Giáo sư, Nghị quyết số 71-NQ/TW  của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạođược coi là một “cột mốc chiến lược” cho giáo dục Việt Nam, kế thừa và phát triển từ Nghị quyết 29. Ông đánh giá đâu là điểm mới đột phá nhất trong văn kiện lần này?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhận thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những thay đổi. Nghị quyết chỉ ra rất rõ để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. 

Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì quản lý, phải kiến tạo, với những cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo và sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Nghị quyết số 71-NQ/TW sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Từ Nghị quyết này có thể thấy Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng lớn lao cho giáo dục và đào tạo: Đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.

Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, nhất trí và đồng tình, đánh giá cao chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học của Nghị quyết. 

Như tôi đã từng phát biểu, tri thức và các công cao xuất phát từ các nhà khoa học, từ các phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, do đó giáo dục đại học có ý nghĩa rất quan trọng trọng việc thúc đẩy thực hiện thành công nghị quyết 57. Nghị quyết 57 không thể thành công như mong đợi nếu giáo dục đại học Việt Nam không đổi mới và cất cánh.

Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. 

Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. 

Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học. Tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, một số hạn chế kìm hãm và ràng buộc. 

Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết, và Nghị quyết 71-NQ/TW này thực sự sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học.

Thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học

Nghị quyết 71-NQ/TW cũng thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học tới tầm và vượt trội; thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên và hỗ trợ tài chính và tạo cơ hội học tập cho mọi người.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 71-NQ/TW cũng cộng hướng với Nghị quyết 57, quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới – đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới để trở thành nòng cột và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Nghị quyết 71-NQ/TW cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường. 

Đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ hiện đại và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. 

Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội.

Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo là sự quan tâm thiết thực của Đảng

Nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn đối với đội ngũ nhà giáo

Một cam kết rất mạnh mẽ trong Nghị quyết là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo Giáo sư, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo trong thời gian tới?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Có thực mới vực được đạo”, việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục. 

Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được “trường ra trường, lớp ra lớp”. 

Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.

Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.

Những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn sinh viên Pháp sang Việt Nam thực tập

Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên giỏi giang và ưu tú

Lần đầu tiên, Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Với kinh nghiệm quản lý và nghiên cứu của mình, Giáo sư cho rằng chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện gì để biến mục tiêu này thành hiện thực?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực KHCN trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. 

Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự chín về thời gian.

Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế, với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng trường có lĩnh vực KHTN, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.

Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể – các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.

Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện

Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. 

Bài học về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là một bài học quý. Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và Đại học Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới. Sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. 

Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. 

Khoán 100, khoán 10 trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71 chính là “khoán 10”, “khoán 100” trong giáo dục đại học.

Nghị quyết 71-NQ/TW chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiện, kỹ thuât, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại. 

Tôi cho rằng nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới.

Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á

Phổ cập tiếng Anh và sử dụng AI là hết sức cần thiết 

Nghị quyết cũng nhấn mạnh đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và tích hợp chuẩn năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục. Theo Giáo sư, đâu là cơ hội và thách thức khi triển khai những yêu cầu mới này trong hệ thống phổ thông và đại học?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là chủ trương rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Năm 2024, giải Nobel Vật lý đã được trao cho 2 giáo sư: John J. Hopfield (Mỹ) và Geoffrey E. Hinton (Canada), những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực máy học và mạng lưới thần kinh nhân tạo, những nền tảng cho công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đại. 

Công trình của họ đã tạo ra các phương pháp để máy móc học và xử lý thông tin, mở đường cho sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ngày nay. 

Cũng trong năm 2024, nhà hóa học Mỹ David Baker đoạt giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu, phát triển một công cụ dự đoán protein do AI điều khiển tên RoseTTAFold. 

Trong khi đó, Demis Hassabis và John M. Jumper đoạt giải Nobel 2024 do đã phát triển thành công một hệ thống AI giải quyết được bài toán dự đoán cấu trúc protein làm đau đầu giới khoa học suốt 50 năm nay. 

Những thông tin trên, cùng với sự ra đời của siêu trí tuệ nhân tạo (AGI – là những hệ thống có thể học mọi tri thức, có nhận thức, vượt qua trí thông minh của con người) và sự hiện diện của AI trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, cho thấy AI đã trở thành công nghệ lõi mũi nhọn, hết sức cần thiết phải đưa AI vào trong nhà trường.

Và hơn thế, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam phải có chiến lược để tiên phong nghiên cứu và phát triển, làm chủ một số công nghệ AI phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Việc phổ cập tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2, cũng như chuyển đổi số và sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong nhà trường ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là chín muồi và hết sức cần thiết để giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập. 

Được trang bị những hành trang này ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường cho đến giảng đường đại học, cùng với nền tảng kiến thức STEM, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh rất tốt, có cơ hội làm việc trong bất cứ môi trường nào, trong nước cũng các tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia cũng như tạo cho Việt Nam lợi thế thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài.

Sau nhiều năm thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, năng lực tiếng Anh của học sinh Việt Nam có cải thiện đáng kể. Tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy năm 2023, 2024 vẫn có gần nửa triệu bài thi, chiếm 44% (2023) và 42% (2024) số lượng thí sinh dự thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình. 

Năm 2025 môn tiếng Anh được tự chọn, nhưng vẫn có đến 38% số thí sinh chọn thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình. Như vậy là xuất phát điểm việc dạy và học tiếng Anh trong các trường phổ thông của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp.

Với số lượng giáo viên tiếng Anh cũng có hạn, biên chế sinh viên trong lớp học của ta còn lớn, có lớp lên đến 45-50 học sinh thì giáo viên tiếng Anh sẽ bị quá tải. Do đó việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc dạy và học tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng. 

AI hỗ trợ giáo viên tiếng Anh chấm nói, chấm viết, soạn bài giảng, đánh giá tổng thể năng lực từng học sinh. AI hỗ trợ người học luyện nói, luyện viết cũng như cả 4 kỹ năng. 

Và các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam cần vào cuộc để hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ứng dụng AI trong dạy, học, và cấp bách là trong việc dạy và học tiếng Anh.

Bên cạnh đó, là chương trình, giáo trình và bài giảng. Để tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, thì không chỉ dạy môn tiếng Anh để thi IELTS, mà còn phải có chương trình, giáo trình, bài giảng và giáo viên dạy các môn chuyên môn như toán, lý, hóa… bằng tiếng Anh.

Còn với việc đưa AI vào như môn học, như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập trong nhà trường, cũng đối mặt với việc cần xây dựng chương trình, giáo trình và các quy định chuẩn mực trách nhiệm và đạo đức, liêm chính trong việc sử dụng AI phù hợp với các bậc học và chuẩn bị đội ngũ giáo viên.

Tóm lại, những chủ trương, đường lối của Nghị quyết 71-NQ/TW về tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, và về chuyển đổi số và sử dụng AI trong nhà trường là hoàn toàn đúng đắn và bắt kịp với xu thế của thời đại. 

Để thực hiện được những nội dung trên, chúng ta phải nắm rất rõ thực trạng, để có giải pháp đúng, hiệu quả, và quan trọng nhất là phải có chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo và quyết tâm rất lớn của ngành giáo dục, có đầu tư bài bản và sự đồng hành của học sinh, phụ huynh, các doanh nghiệp và toàn xã hội với nhà trường và ngành giáo dục.

Nghị quyết 71-NQ/TW: Cải tổ giáo dục Việt Nam, đưa giáo dục đại học ‘cất cánh’

Về dài hạn, Giáo sư kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong hành trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đích cuối cùng của Nghị quyết 71-NQ/TW và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật – nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”, có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân. 

Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.

Tôi cho rằng Nghị quyết 71-NQ/TW là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045./.

Nghị quyết 71 – “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Công nghệ (ĐHQGHN) khẳng định Nghị quyết 71- NQ/TW là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam. Văn kiện đặt mục tiêu đến năm 2035 có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học lọt top 100 thế giới, bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các trường, ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho đội ngũ nhà giáo, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và ứng dụng AI có trách nhiệm trong giảng dạy, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho khát vọng phát triển đất nước đến 2045.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết 71 được ví như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam

Thưa Giáo sư, Nghị quyết 71 được coi là một “cột mốc chiến lược” cho giáo dục Việt Nam, kế thừa và phát triển từ Nghị quyết 29. Ông đánh giá đâu là điểm mới đột phá nhất trong văn kiện lần này?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhân thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những thay đổi. Nghị quyết chỉ ra rất rõ để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì quản lý, phải kiến tạo, với những cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo và sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Từ Nghị quyết này có thể thấy Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng lớn lao cho giáo dục và đào tạo: Đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.

Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, nhất trí và đồng tình, đánh giá cao chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học của Nghị quyết. Như tôi đã từng phát biểu, tri thức và các công nghệ cao xuất phát từ các nhà khoa học, từ các phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, do đó giáo dục đại học có ý nghĩa rất quan trọng trọng việc thúc đẩy thực hiện thành công nghị quyết 57. Nghị quyết 57 không thể thành công như mong đợi nếu giáo dục đại học Việt Nam không đổi mới và cất cánh.

Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học, tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, một số hạn chế kìm hãm và ràng buộc. 

Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết, và Nghị quyết 71 này thực sự sẽ là khoán 10 trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học.

Nghị quyết này cũng thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học tới tầm và vượt trội; thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên và hỗ trợ tài chính và tạo cơ hội học tập cho mọi người.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng cộng hướng với Nghị quyết 57, quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới – đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới để trở thành nòng cột và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam; Nghị quyết cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ hiện đại và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. 

Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội. 

Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo là sự quan tâm thiết thực của Đảng

Một cam kết rất mạnh mẽ trong Nghị quyết là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo Giáo sư, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo trong thời gian tới?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Có thực mới vực được đạo”, việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục. Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được “trường ra trường, lớp ra lớp”. Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.

Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.

Những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam. 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn sinh viên Pháp sang Việt Nam thực tập

Lần đầu tiên, Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Với kinh nghiệm quản lý và nghiên cứu của mình, Giáo sư cho rằng chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện gì để biến mục tiêu này thành hiện thực?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực KHCN trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự chín về thời gian.

Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế, với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng trường có lĩnh vực KHTN, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.

Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể – các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.

Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. Bài học về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là một bài học quý: Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và ĐH Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới, sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. Khoán 100, khoán 10 trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71 chính là khoán 10, khoán 100 trong giáo dục đại học.

Nghị quyết 71 chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiện, kỹ thuât, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại. Tôi cho rằng nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới. 

Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á

Nghị quyết cũng nhấn mạnh đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và tích hợp chuẩn năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục. Theo Giáo sư, đâu là cơ hội và thách thức khi triển khai những yêu cầu mới này trong hệ thống phổ thông và đại học? 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là chủ trương rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Năm 2024, giải Nobel Vật lý đã được trao cho 2 giáo sư: John J. Hopfield (Mỹ) và Geoffrey E. Hinton (Canada), những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực máy học và mạng lưới thần kinh nhân tạo, những nền tảng cho công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đại. Công trình của họ đã tạo ra các phương pháp để máy móc học và xử lý thông tin, mở đường cho sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ngày nay. Cũng trong năm 2024, nhà hóa học Mỹ David Baker đoạt giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu, phát triển một công cụ dự đoán protein do AI điều khiển tên RoseTTAFold. Trong khi đó, Demis Hassabis và John M. Jumper đoạt giải Nobel 2024 do đã phát triển thành công một hệ thống AI giải quyết được bài toán dự đoán cấu trúc protein làm đau đầu giới khoa học suốt 50 năm nay. 

Những thông tin trên, cùng với sự ra đời của siêu trí tuệ nhân tạo (AGI – là những hệ thống có thể học mọi tri thức, có nhận thức, vượt qua trí thông minh của con người) và sự hiện diện của AI trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, cho thấy AI đã trở thành công nghệ lõi mũi nhọn, hết sức cần thiết phải đưa AI vào trong nhà trường, và hơn thế, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam phải có chiến lược để tiên phong nghiên cứu và phát triển, làm chủ một số công nghệ AI phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Việc phổ cập tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2, cũng như chuyển đổi số và sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong nhà trường ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là chín muồi và hết sức cần thiết để giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập. Được trang bị những hành trang này ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường cho đến giảng đường đại học, cùng với nền tảng kiến thức STEM, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh rất tốt, có cơ hội làm việc trong bất cứ môi trường nào, trong nước cũng các tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia cũng như tạo cho Việt Nam lợi thế thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài.

Sau nhiều năm thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, năng lực tiếng Anh của học sinh Việt Nam có cải thiện đáng kể, tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy năm 2023, 2024 vẫn có gần nửa triệu bài thi, chiếm 44% (2023) và 42% (2024) số lượng thí sinh dự thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình; năm 2025 môn tiếng Anh được tự chọn, nhưng vẫn có đến 38% số thí sinh chọn thi môn tiêng Anh có điểm dưới trung bình. Như vậy là xuất phát điểm việc dạy và học tiếng Anh trong các trường phổ thông của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp.

Với số lượng giáo viên tiếng Anh cũng có hạn, biên chế sinh viên trong lớp học của ta còn lớn, có lớp lên đến 45-50 học sinh thì giáo viên tiếng Anh sẽ bị quá tải, do đó việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc dạy và học tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng. AI hỗ trợ giáo viên tiếng Anh chấm nói, chấm viết, soạn bài giảng, đánh giá tổng thể năng lực từng học sinh. AI hỗ trợ người học luyện nói, luyện viết cũng như cả 4 kỹ năng. Và các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam cần vào cuộc để hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ứng dụng AI trong dạy và học, và cấp bách là trong việc dạy và học tiếng Anh.

Bên cạnh đó, là chương trình, giáo trình và bài giảng. Để tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, thì không chỉ dạy môn tiếng Anh để thi IELTS, mà còn phải có chương trình, giáo trình, bài giảng và giáo viên dạy các môn chuyên môn như toán, lý, hóa… bằng tiếng Anh.

Còn với việc đưa AI vào như môn học, như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập trong nhà trường, cũng đối mặt với việc cần xây dựng chương trình, giáo trình và các quy định chuẩn mực trách nhiệm và đạo đức, liêm chính trong việc sử dụng AI phù hợp với các bậc học và chuẩn bị đội ngũ giáo viên.

Tóm lại, những chủ trương, đường lối của Nghị quyết 71 về tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, và về chuyển đổi số và sử dụng AI trong nhà trường là hoàn toàn đúng đắn và bắt kịp với xu thế của thời đại. Để thực hiện được những nội dung trên, chúng ta phải nắm rất rõ thực trạng, để có giải pháp đúng, hiệu quả, và quan trọng nhất là phải có chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo và quyết tâm rất lớn của ngành giáo dục, có đầu tư bài bản và sự đồng hành của học sinh, phụ huynh, các doanh nghiệp và toàn xã hội với nhà trường và ngành giáo dục.

Về dài hạn, Giáo sư kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong hành trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đích cuối cùng của Nghị quyết 71, và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật – nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”, có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân. Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn; và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.

Tôi cho rằng Nghị quyết 71 là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57 về KHCN và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.