Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Hòa mình vào thực tiễn để nghiên cứu có ứng dụng cao

Theo Giáo sư Nguyễn Đình Đức, khi nhà khoa học đi sâu vào thực tiễn, hòa mình vào thực tiễn thì sẽ ứng dụng được các nghiên cứu, mang lại giá trị thiết thực cho cộng đồng.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức (Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) vừa vinh dự nhận Giải thưởng Bảo Sơn – giải thưởng vinh danh các công trình nghiên cứu xuất sắc mang lại nhiều giá trị trong thực tiễn.

30 năm bền bỉ

Công trình đạt giải thưởng của Giáo sư Nguyễn Đình Đức là cụm công trình “Nghiên cứu và ứng dụng vật liệu và kết cấu compozite ba pha tiên tiến trong kỹ thuật.” Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu bền bỉ và đưa vào ứng dụng trong thực tế của Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức trong suốt hơn 30 năm qua.

Hành trình ấy bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ 20, tại Phòng thí nghiệm Vật liệu compozit của Viện nghiên cứu chế tạo máy, Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô – một trong những phòng thí nghiệm tiên tiến và hiện đại nhất về vật liệu compozit của thế giới lúc bấy giờ.

Với nỗ lực bền bỉ, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã phát hiện ra một cấu trúc vật liệu compozit cacbon-cacbon mới có cấu trúc không gian 3 pha với tính năng siêu bền cơ học, siêu bền nhiệt và siêu nhẹ, có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng, đặc biệt trong công nghệ chế tạo tên lửa.

Sự phát hiện của Giáo sư Nguyễn Đình Đức là lời giải đáp mà nhiều nhà vật lý và công nghệ vật liệu chưa thể giải quyết được để nâng cao tính năng cơ lý của vật liệu compozit.

Bên cạnh đó, nghiên cứu đã tính toán được sự tương tác giữa nền với sợi và hạt. Các công thức xác định các mô đun đàn hồi được thể hiện ở dạng giải tích, do đó, khi thay đổi các tham số lựa chọn ban đầu, chúng ta có thể thiết kế vật liệu compozit mới có các tính chất cơ lý mong muốn.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cơ bản và thực nghiệm, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã chứng minh được khi bổ sung các hạt, đặc biệt là các hạt có kích thước nano, sẽ làm giảm mạnh các lỗ rỗng, nâng cao tính năng cơ lý của vật liệu compozit như tăng đàn hồi, tăng khả năng chịu nhiệt, giảm các biến dạng dẻo và từ biến, tăng tuổi thọ của vật liệu.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức nhận Giải thưởng Bảo Sơn. (Ảnh: NVCC)

Từ năm 2012, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã phối hợp với Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang, ứng dụng thành công trong việc chống thấm cho đà máy tàu thủy bằng compozit nền polymer 3 pha khi bổ sung các hạt titan oxit, được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế năm 2016. Từ đó, nhờ áp dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện đã nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, liên tục phát triển, đã đóng hơn 60 tàu và nhiều thiết bị bằng compozit trong lĩnh vực tàu thuyền và hậu cần nghề cá, với tổng doanh thu trên 300 tỷ đồng.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng đã nghiên cứu, tính toán dao động, ổn định tĩnh và động lực học của các kết cấu tấm, vỏ được làm từ compozit 3 pha và các kết cấu này có thể ứng dụng trong các công trình xây dựng và hạ tầng, đóng tàu, các tấm pin hấp thụ năng lượng mặt trời, cho đến thân vỏ các kết cấu compozit ứng dụng trong hàng không, vũ trụ, và các kết cấu chịu các điều kiện tác động phức tạp của nhiệt, điện, từ trường.

Xây dựng trường phái nghiên cứu mới

Theo đánh giá của Hội đồng xét giải thưởng Bảo Sơn năm 2024, công trình nghiên cứu compozit 3 pha có cấu trúc không gian của Giáo sư Nguyễn Đình Đức có hàm lượng tri thức, hàm lượng khoa học cũng như tính ứng dụng cao, khẳng định tầm vóc nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu tiên tiến, xứng đáng được vinh danh.

Hội đồng cũng nhận định điểm đặc biệt trong công trình bền bỉ của ông là không chỉ xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng trong thực tiễn mà còn làm nên một trường phái về compozit 3 pha của Việt Nam với tên tuổi và uy tín được cộng đồng khoa học quốc tế biết đến và đánh giá cao.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức (đứng giữa) và các học trò. (Ảnh: NVCC)

Chỉ riêng trong mảng nghiên cứu vật liệu compozit 3 pha, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã đào tạo thành công nhiều tiến sỹ. Hiện các học trò của ông vẫn đang tiếp tục nghiên cứu theo nhiều hướng ứng dụng các vật liệu compozit 3 pha tiên tiến trong công nghiệp đóng tàu hiện đại hơn và các lĩnh vực công nghiệp khác ở Việt Nam.

Trong suốt quá trình hoạt động khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố gần 400 bài báo, công trình khoa học, trong đó có hơn 220 bài trên các tạp chí quốc tế trong danh mục ISI. Riêng về compozit 3 pha, ông đã công bố trên 30 bài báo, công trình với hơn 20 bài trên các tạp chí quốc tế ISI uy tín.

Trong 6 năm liên tiếp từ 2019 đến nay, Giáo sư Nguyễn Đình Đức liên tục lọt top 10.000 nhà khoa học có chỉ số công bố, nghiên cứu ảnh hưởng nhất thế giới, đứng thứ 78 trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ trong năm 2024. Ông vinh dự được mời tham gia vào hội đồng khoa học của các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI của cộng đồng khoa học quốc tế.

Vinh dự nhận Giải thưởng Bảo Sơn, Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Nguyễn Đình Đức cho hay giải thưởng là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao để ông và các đồng nghiệp tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới trong khoa học, đem kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ thiết thực đời sống của nhân dân, đất nước.

Chia sẻ về dự định trong thời gian tới, Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết ông sẽ tiếp tục nghiên cứu các vật liệu mới có tính năng ưu việt như pentagraphin, auxetic, các compozit được gia cường bởi các ống nano carbon (CNT), graphene… giúp tăng cường đáng kể độ bền cơ học, độ dẫn nhiệt và điện – hướng tới các ứng dụng trong lĩnh vực điện tử, năng lượng tái tạo, lưu trữ thông tin và hàng không vũ trụ và đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các bài toán kỹ thuật.

“Những nghiên cứu khoa học cao siêu nhưng lại rất gần gũi trong thực tiễn. Khi nhà khoa học đi sâu vào thực tiễn, hòa mình vào thực tiễn thì sẽ ứng dụng được các nghiên cứu, mang lại giá trị thiết thực cho cộng đồng,” Giáo sư Nguyễn Đình Đức nói./.

Professor Nguyen Dinh Duc Honored at the 2024 Bao Son Award for Outstanding Contributions to Science and Practical Applications in Vietnam

Professor, Doctor of Science (GS.TSKH) Nguyen Dinh Duc – former Chairman of the University Council at the University of Engineering and Technology, Vietnam National University, Hanoi (VNU-UET), and currently Dean of the Faculty of Civil Engineering – will officially be honored at the 2024 Bao Son Award Ceremony, one of the most prestigious and significant awards in Vietnam in the fields of science and technology.

With over 40 years of experience in scientific research and education management, Professor Nguyen Dinh Duc has made profound contributions to the development of VNU and UET, whether as an educator, a scientist, or an administrator. He has held numerous key leadership positions such as Head of the Department of Science and Technology, Head of the Training Department – VNU hanoi, Vice Rector of the University of Engineering and Technology, Chairman of the University Council of VNU-UET, and currently Head of the Department of Civil and Transportation Engineering. In all these roles, he has performed his duties with excellence.

In scientific research, Professor Nguyen Dinh Duc has published over 400 papers and scientific works, including nearly 250 articles in ISI-indexed international journals. Since 2019, he has continuously been ranked among the top 10,000 most influential scientists globally and the top 100 leading scientists in the field of Engineering and Technology – ranking 74th in the world in 2024.

Between 2020 and 2025 alone, Professor Duc has led 12 research projects at various levels, including two national-level projects, two basic research projects funded by the Nafosted Foundation, and four ministerial-level projects. He has published nearly 100 ISI papers, all in Q1/Q2 journals, with 20% in top 5% ISI journals. During this same period, nine of his PhD students have successfully defended their dissertations.

The series of works titled “Research and Application of Advanced Three-Phase Composite Materials in Engineering” stems from the discovery of a novel carbon-carbon composite material with a spatial three-phase structure featuring ultra-high mechanical strength, thermal resistance, and lightweight properties. These materials play a critical role in both industrial and defense sectors, especially in missile manufacturing, making them a focus of research for global superpowers. The idea of developing such ultra-durable carbon composites to improve missile range and flight time was part of Professor Duc’s Doctor of Science thesis at the Composite Materials Laboratory of the Research Institute of Machine Design, Academy of Sciences of the former Soviet Union—one of the most advanced composite laboratories in the world in the late 1990s and home to leading Russian professors and academicians.

Professor Duc’s discovery addressed a long-standing challenge in the physics and materials science communities—enhancing the mechanical and physical properties of composites while accounting for nonlinear relationships and interactions between reinforcing components. His research into ideal 3D and 4D composite structures has been widely published in leading international journals and has significantly advanced the field of new materials. It has also provided a solid foundation for practical applications in industry, daily life, and national defense.

His work has been highly recognized and appreciated by the global scientific community. He has been invited to join the editorial boards of prestigious ISI journals such as Acta Mechanica (Springer), Aerospace Science and Technology (Elsevier), ZAMM – Journal of Applied Mathematics and Mechanics (Wiley), among others. He has also been invited to deliver keynote speeches at plenary sessions of major international conferences on materials science.

In Vietnam, Professor Duc has established a strong research group in advanced materials and structures, thereby founding a new scientific school in this field aimed at nurturing young talents and applying research results in practice. Between 2010 and 2012, he collaborated with the Shipbuilding Research Institute of Nha Trang University to successfully apply a three-phase polymer composite with titanium oxide particles for waterproofing ship engine foundations. This innovation was granted a patent by the Intellectual Property Office in 2016. His solution not only brought high economic efficiency to the receiving units but also opened new prospects for applications in various fields.

Sharing his thoughts on the Bao Son Award and future research directions, Professor Nguyen Dinh Duc stated:  “This is a very prestigious award that acknowledges the dedication and efforts of Vietnamese scientists and technologists. It is also a great source of encouragement for me and my colleagues to continue reaching new scientific heights and turning research results into practical contributions for the people and the nation.


In the near future, my team and I will continue our research on advanced materials such as pentagraphene, auxetics, and composites reinforced with carbon nanotubes (CNTs) and graphene, aiming to significantly improve mechanical strength, thermal and electrical conductivity for applications in electronics, renewable energy, data storage, aerospace, and especially artificial intelligence applications in engineering problems.”

On this occasion, Professor Duc extended his heartfelt gratitude and best wishes to his family, colleagues, the leadership of the University of Engineering and Technology, the VNU leadership, the Shipbuilding Research Institute of Nha Trang University, and especially to the Chairman of Bao Son Group, the Bao Son Award Council, and the 2024 Scientific Review Panel.

The recognition of Professor Nguyen Dinh Duc with the Bao Son Award this year is not only a personal honor but also a source of pride for his research team, students, University of Engineering and Technology and VNU. It serves as a powerful motivation and inspiration for young scientists, PhD candidates, graduate students, and undergraduates to confidently pursue scientific careers and devote themselves to applying research for the betterment of the country—a prosperous and powerful Vietnam.

The Bao Son Award Ceremony 2024 will take place at 7:30 PM on May 11, 2025, at the Hanoi Opera House, and will be broadcast live on VTV1.

Details of Professor Nguyen Dinh Duc’s research (available in both Vietnamese and English)

(UET-News)

See more

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được vinh danh tại Giải thưởng Bảo Sơn 2024 vì những đóng góp xuất sắc cho khoa học và ứng dụng trong thực tiễn ở Việt Nam

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện là Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông  sẽ chính thức được vinh danh tại lễ trao Giải thưởng Bảo Sơn 2024, một trong những giải thưởng lớn và uy tín nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Trải qua hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục, dù ở bất cứ cương vị công tác nào – vai trò nhà giáo, nhà khoa học hay nhà quản lý, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã có những đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của ĐHQGHN. Ông từng đảm nhận nhiều vị trí quản lý chủ chốt như: Trưởng ban Khoa học Công nghệ, Trưởng ban Đào tạo, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ và hiện là Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông. Dù ở cương vị nào, ông cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.

Ở lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đến nay, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố 400 bài báo, công trình khoa học, trong số đó có gần 250 bài trên các tạp chí quốc tế ISI. Từ năm 2019 đến nay, Giáo sư liên tiếp lọt vào top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới và top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới  trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) – đứng thứ 74 thế giới trong năm 2024.

Chỉ riêng trong giai đoạn 5 năm từ 2020 – 2025, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã và đang chủ trì 12 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, trong đó có 2 đề tài cấp Nhà nước, 2 đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Nafosted và 4 đề tài cấp Bộ, công bố gần 100 bài ISI đều thuộc top các tạp chí Q1/Q2, trong đó  20% là các bài báo trên các tạp chí ISI uy tín top 5%. Cũng chỉ riêng trong giai đoạn 5 năm này, 9 học trò của ông đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án và nhận bằng tiến sỹ.

Cụm công trình “Nghiên cứu và ứng dụng vật liệu và kết cấu compozit ba pha tiên tiến trong kỹ thuật” là kết quả của sự phát hiện ra một cấu trúc vật liệu compozit cacbon-cacbon mới có cấu trúc không gian 3 pha với tính năng siêu bền cơ học, siêu bền nhiệt và siêu nhẹ, có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng, đặc biệt trong công nghệ chế tạo tên lửa. Chính vì vậy, vật liệu này được các siêu cường quốc đặt trọng tâm nghiên cứu. Ý tưởng nghiên cứu về loại vật liệu compozit cácbon mới siêu bền như vậy nhằm cải thiện về tầm bắn, thời gian bay cho tên lửa, gắn liền với luận án tiến sỹ khoa học của Giáo sư Nguyễn Đình Đức tại Phòng thí nghiệm Vật liệu compozit của Viện nghiên cứu chế tạo máy, Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô – một trong những PTN tiên tiến và hiện đại nhất về vật liệu compozit của thế giới từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX và là nơi làm việc của những giáo sư, viện sỹ hàng đầu của Nga.

Sự phát hiện của Giáo sư Nguyễn Đình Đức là lời giải đáp mà nhiều nhà vật lý và công nghệ vật liệu  lúc đó chưa thể giải quyết được để nâng cao tính năng cơ lý của vật liệu compozit, đặc biệt có tính đến mối quan hệ phi tuyến và tương tác của các thành phần gia cường trong vật liệu. Những kết quả nghiên cứu về kết cấu vật liệu lý tưởng compozit 3D, 4D của ông đã được công bố rộng rãi trên các tạp chí khoa học hàng đầu thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành vật liệu mới, đồng thời là nền tảng để ứng dụng thiết thực trong lĩnh vực đời sống, công nghiệp và an ninh quốc phòng.

Nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã được cộng đồng các nhà khoa học quốc tế thừa nhận và đánh giá rất cao. Đây cũng là lý do ông được mời tham gia vào Hội đồng khoa học của các tạp chí ISI lớn, có uy tín của quốc tế như Acta Mechanica (Nhà xuất bản Springer), tạp chí hàng đầu về khoa học và công nghệ hàng không vũ trụ Aerospace Science and Technology (Nhà Xuất bản Elsevier), tạp chí về toán và cơ học ứng dụng ZAMM (Nhà xuất bản Willey) và nhiều tạp chí ISI có uy tín khác của cộng đồng khoa học quốc tế; được  mời làm báo cáo  tại phiên toàn thể của những Hội nghị quốc tế lớn về vật liệu.

Trong quá trình nghiên cứu tại Việt Nam, ông đã thành lập nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, từ đó đã hình thành nên một Trường phái khoa học thuộc lĩnh vực này nhằm tiếp tục nghiên cứu, đào tạo các tài năng trẻ cho đất nước và  nghiên cứu ứng dụng kết quả khoa học vào thực tế. Năm 2010-2012, Giáo sư Đức đã phối hợp với Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang, ứng dụng thành công trong việc chống thấm cho đà máy tàu thủy bằng compozit polymer 3 pha khi bổ sung các hạt Titan oxit và được Cục sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế vào năm 2016. Giải pháp của Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị tiếp nhận và sử dụng, và mở ra triển vọng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực trong tương lai.

Chia sẻ về ý nghĩa của Giải thưởng Bảo Sơn và dự định sắp tới trong nghiên cứu khoa học, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết: “Đây là giải thưởng rất cao quý, ghi nhận những cống hiến nỗ lực của các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam, đồng thời là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao để tôi và các đồng nghiệp tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới trong khoa học, đem kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ thiết thực đời sống của nhân đân, đất nước.

Trước hết, tôi  và nhóm nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu các vật liệu mới có tính năng ưu việt như pentagraphin, auxetic, các compozit được gia cường bởi các ống nano carbon (CNT), graphene,… giúp tăng cường đáng kể độ bền cơ học, độ dẫn nhiệt và điện – hướng tới các ứng dụng trong lĩnh vực điện tử, năng lượng tái tạo, lưu trữ thông tin và hàng không vũ trụ và đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các bài toán kỹ thuật”.

Nhân dịp này, Giáo sư Nguyễn Đình Đức bày tỏ lời kính chúc sức khỏe, lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới  gia đình, tới các đồng nghiệp, tới lãnh đạo Trường Đại học Công nghệ, lãnh đạo ĐHQGHN, tới Viện nghiên cứu và chế tạo tàu thủy – ĐH Nha Trang, đặc biệt tới Chủ tịch Tập đoàn Bảo Sơn và Hội đồng xét giải thưởng, hội đồng chuyên môn xét giải thưởng năm nay.

Sự kiện Giáo sư Nguyễn Đình Đức được trao tặng Giải thưởng Bảo Sơn năm nay là vinh dự lớn không chỉ của cá nhân Giáo sư, mà còn là vinh dự và niềm tự hào của nhóm nghiên cứu, các thế hệ học trò, của nhà trường và ĐHQGHN, là nguồn cổ vũ động viên có sức lan tỏa mạnh mẽ tới các nhà khoa học trẻ, các bạn nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên tự tin và mạnh dạn dấn thân theo đuổi con đường khoa học, ý chí quyết tâm đem những nghiên cứu của mình phục vụ thực tiễn, vì một tương lai đất nước giàu mạnh, hùng cường.

Lễ trao Giải thưởng Bảo Sơn 2024 sẽ diễn ra vào 19h30 ngày 11/5/2025 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, và được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1

Chi tiết nội dung nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (tiếng Việttiếng Anh)

(UET-News)

Xem thêm

Bao Son Award – Distinguished Work by Professor Nguyen Dinh Duc

1. Title of the Cluster of Works Nominated for the Award:

Research and Application of Advanced Three-Phase Composite Materials and Structures in Engineering

2. Scientific Field of the Works: Engineering Technology

3. Author: Prof. Dr. Sci. Nguyen Dinh Duc, University of Engineering and Technology, Vietnam National University, Hanoi (VNU)

The cluster of works nominated for the award is the result of discovering a new type of carbon-carbon composite material with a three-phase, spatial structure. This material demonstrates exceptional mechanical strength, remarkable thermal endurance, and ultra-light weight, holding a very important position in industry and national defence, particularly in missile manufacturing. For this reason, many global superpowers have made it a research priority. The initial motivation for researching this new, ultra-strong carbon composite – aimed at improving missile range and flight time – originated from the doctoral habilitation dissertation of Prof. Nguyen Dinh Duc, conducted at the Composite Materials Laboratory of the Machine Manufacturing Research Institute, under the USSR Academy of Sciences. This lab was among the most advanced in the world in the field of composite materials in the late 1990s, home to leading Russian professors and academicians.

After many years of research, Prof. Nguyen Dinh Duc recognized that the properties of composite materials depend on three main factors: the input materials, the manufacturing technology, and the structure and the arrangement of the constituent materials. To enhance the performance of composite materials without altering existing technologies and input materials, the critical pathway lies in innovatively modifying their internal structure and optimizing the spatial distribution and proportion of constituent phases. Based on that principle, he proposed a three-phase composite model consisting of the matrix, reinforcing fibers, and particles. He also demonstrated that a three-phase composite with a 3D or 4D spatial structure achieves exceptional mechanical, thermal, electrical and magneto performance, positioning them among the most mechanically robust form of composite structures. Not only are 3D and 4D carbon-carbon composite super strong, they are also ultra-light and capable of withstanding temperatures up to several thousand degrees.

Prof. Nguyen Dinh Duc’s discovery addressed a long-standing challenge that many physicists and materials scientists had yet to overcome. His published findings on ideal 3D and 4D composite architectures offer promising potential for the design and fabrication of a wide range of products, spanning both civilian applications and national defence.

In the modern era, nearly all rocket motor nozzles (exhaust cones) utilize advanced three-phase carbon-carbon composites with 3D or 4D spatial structures—materials designed and developed from the groundbreaking research of Prof. Nguyen Dinh Duc. These composites have been instrumental in progressively extending missile ranges from approximately 5,000 km to up to 10,000 km today.

Prof. Nguyen Dinh Duc’s research findings have been extensively published in leading international scientific journals, contributing significantly to the advancement of advanced materials in both global industry and defence sectors. His work has garnered widespread recognition and high rated from the international scientific community. As a result, he has been invited to serve on the editorial boards of several prestigious ISI-indexed journals, including Acta Mechanica (Springer), Aerospace Science and Technology (Elsevier), and ZAMM (Wiley), among others. He has also been frequently invited to deliver plenary lectures at major international conferences on materials science in the word.

Notably, his fundamental findings on three-phase composites also apply to other types of composites, such as polymer-matrix, metal-matrix, ceramic-matrix, and other non-metallic matrices.

During his research career in Vietnam, he established a strong research team dedicated to advanced materials and structures, forming a scientific school in this field to further research, train young talent for the country, and transfer scientific results to real-world applications. From 2010 to 2012, Prof. Duc collaborated with the Shipbuilding Research Institute at Nha Trang University to successfully apply three-phase polymer composites (incorporating titanium oxide particles) as a waterproofing solution in dockyards. This work was granted a patent by the Intellectual Property Office of Vietnam in 2016. Thanks to these scientific achievements, the Shipbuilding Research Institute at Nha Trang University improved product quality and competitiveness, continually growing and producing over 60 composite vessels for fishing logistics, generating total revenues exceeding VND 300 billion. This shows that Prof. Duc’s innovations are not just important scientific discoveries, but also bring real value to life in Vietnam. His work is a great example of how universities, scientists, and businesses can work together effectively. Prof. Nguyen Dinh Duc’s solution is distinctive in its scientific approach, enabling the selection of optimal structures and the most suitable ratios of fibers and particles—striking a balance between cost and technical performance within the constraints of existing technologies. This has significantly improved the quality and competitiveness of Vietnam’s composite ships, ultimately generating substantial economic benefits for the organizations that adopt and apply these solutions.

Building on these achievements, he continues to explore cutting-edge materials with outstanding properties—such as pentagraphene and composites reinforced with carbon nanotubes (CNTs) or graphene—to further enhance mechanical strength as well as thermal and electrical conductivity. These advanced materials hold great promise for applications in electronics, renewable energy, IT, data storage, and aerospace technologies.

Over his scientific career, Prof. Nguyen Dinh Duc has published nearly 400 papers and scientific works, over 220 of which have appeared in ISI-listed international journals. From 2019 to the present, he has ranked among the top 10,000 most influential scientists worldwide for six consecutive years, and he is 78th in the field of Engineering and Technology for 2024.

In recognition of his exceptional contributions to science, national development, and defence, he was selected as an official delegate to Vietnam’s 6th National Emulative Soldier  in 2000 (Hanoi), awarded the Third-Class Labor Medal in 2016 and the Second-Class Labor Medal in 2022 by the President of Vietnam, and honored as one of Vietnam’s Distinguished Scientific and Technological Intellectuals in 2024.

These studies, rich in intellectual depth, scientific rigor, and practical applicability, affirm the stature and capabilities of Vietnamese scientists in the field of advanced materials. Through over 30 years of unwavering dedication and perseverance, Prof. Nguyen Dinh Duc has not only pioneered a distinct scientific school of advanced three-phase composites in Vietnam, but has also built a reputation recognized and highly respected by the international scientific community. His lifelong contributions stand as a testament to the power of commitment, vision, and the enduring value of the Vietnamese science in driving national progress and global impact.

                                                           ——————–

Giải thưởng Bảo Sơn – Công trình của GS Nguyễn Đình Đức

1. Tên cụm công trình được đề nghị xét tặng Giải thưởng: Nghiên cứu và ứng dụng vật liệu và kết cấu compozit ba pha tiên tiến trong kỹ thuật

2. Lĩnh vực khoa học của công trình: Công nghệ kỹ thuật

3. Tác giả: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN

4. Tóm tắt: 

          Cụm công trình đăng ký giải thưởng là kết quả của sự phát hiện ra một cấu trúc vật liệu compozit cacbon-cacbon mới có cấu trúc không gian 3 pha với tính năng siêu bền cơ học, siêu bền nhiệt và siêu nhẹ, có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng, đặc biệt trong công nghệ chế tạo tên lửa. Chính vì vậy, vật liệu này được các siêu cường quốc đặt trọng tâm nghiên cứu. Ý tưởng nghiên cứu về loại vật liệu compozit cácbon mới siêu bền như vậy nhằm cải thiện về tầm bắn, thời gian bay cho tên lửa, gắn liền với luận án tiến sỹ khoa học của GS. Nguyễn Đình Đức tại PTN Vật liệu compozit của Viện nghiên cứu chế tạo máy, Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô – một trong những PTN tiên tiến và hiện đại nhất về vật liệu compozit của thế giới từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX và là nơi làm việc của những giáo sư, viện sỹ hàng đầu của Nga.

          Sau nhiều năm nghiên cứu, , Giáo sư Nguyễn Đình Đức nhận thấy tính chất của vật liệu compozit phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ chế tạo và cấu trúc, phân bố của các vật liệu thành phần.  Muốn thay đổi tính năng của compozit trong khi công nghệ và vật liệu đầu vào không thay đổi, thì yếu tố then chốt là phải tìm cách để thay đổi kết cấu, cấu trúc và tỷ lệ các vật liệu thành phần, từ đó tạo ra compozit mới có độ bền tốt hơn. Trên cơ sở đó, ông đã đề xuất mô hình compozit 3 pha gồm vật liệu nền, các sợi gia cường và các hạt, và đã chứng minh vật liệu compozit 3 pha có cấu trúc không gian 3 chiều (3D), hoặc 4 chiều (4D) có tính năng vượt trội, là vật liệu compozit có cấu trúc bền cơ học nhất. Không chỉ là vật liệu siêu bền, mà compozit cacbon còn siêu nhẹ và siêu bền nhiệt, loại vật liệu này có thể chịu được nhiệt độ lên đến vài nghìn độ.

         Sự phát hiện của Giáo sư Nguyễn Đình Đức là lời giải đáp mà nhiều nhà vật lý và công nghệ vật liệu  lúc đó chưa thể giải quyết được để nâng cao tính năng cơ lý của vật liệu compozit. Từ những kết quả nghiên cứu về kết cấu vật liệu lý tưởng 3D, 4D của ông đã công bố, có thể ứng dụng để thiết kế và chế tạo nhiều sản phẩm phục vụ đời sống và an ninh quốc phòng.

Hiện nay, hầu hết tất cả các loa phụt của động cơ tên lửa đều là compozit cacbon-cacbon 3 pha có cấu trúc không gian 3D hoặc 4D, và chi tiết này góp phần quan trong đẩy tầm bắn của tên lửa từng bước được nâng lên từ 5.000 km lên tầm bắn xa nhất đạt đến khoảng 10.000 km như hiện nay.

          Những kết quả nghiên cứu trên đây đã được Giáo sư Đức công bố rộng rãi trên các tạp chí khoa học hàng đầu thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành vật liệu mới trên thế giới trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng. Nghiên cứu của GS. Nguyễn Đình Đức đã được cộng đồng các nhà khoa học quốc tế thừa nhận và đánh giá rất cao. Đây cũng là lý do ông được mời tham gia vào Hội đồng khoa học của các tạp chí ISI lớn, có uy tín của quốc tế như Acta Mechanica (Nhà xuất bản Springer), tạp chí hàng đầu về khoa học và công nghệ hàng không vũ trụ  Aerospace Science and Technology (Nhà Xuất bản Elsevier), tạp chí về toán và cơ học ứng dụng ZAMM (Nhà xuất bản Willey) và nhiều tạp chí ISI có uy tín khác của cộng đồng khoa học quốc tế; được  mời làm báo cáo  tại phiên toàn thể của những Hội nghị quốc tế lớn về vật liệu.

          Điểm đặc biệt là những kết quả nghiên cứu cơ bản về compozit 3 pha của ông cũng phù hợp với cả vật liệu compozit khác như compozit nền polymer, compozit nền kim loại, nền gốm và các nền phi kim loại khác.

           Trong quá trình nghiên cứu tại Việt Nam, ông đã thành lập nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, từ đó đã hình thành nên một Trường phái khoa học thuộc lĩnh vực này nhằm tiếp tục nghiên cứu, đào tạo các tài năng trẻ cho đất nước và  nghiên cứu ứng dụng kết quả khoa học vào thực tế,. Năm 2010-2012, Giáo sư Đức đã phối hợp với Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang[1], ứng dụng thành công trong việc chống thấm cho đà máy tàu thủy bằng compozit polymer 3 pha khi bổ sung các hạt Titan oxit. Kết quả công trình nghiên cứu của ông  đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế (GPHI) năm 2016. Nhờ áp dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang đã nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, liên tục phát triển, đã đóng hơn 60 tàu compozit trong lĩnh vực tàu thuyền và hậu cần nghề cá, với tổng doanh thu trên 300 tỷ đồng. Điều này cho thấy đóng góp của Giáo sư Nguyễn Đình Đức không chỉ là những phát hiện mới trong nghiên cứu khoa học mà kết quả của nó còn được ứng dụng thành công trong thực tiễn ở Việt Nam, là sự kết hợp hài hòa giữa  nhà trường, nhà khoa học với doanh nghiệp. Giải pháp của Giáo sư Nguyễn Đình Đức độc đáo ở chỗ có tính toán khoa học, giúp chọn cấu trúc và những tỷ lệ sợi và hạt một cách tối ưu và phù hợp nhất về giá thành và tính năng kỹ thuật trong hoàn cảnh công nghệ hiện có, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của các tàu bằng compozit của Việt Nam, từ đó đem lại những hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị tiếp nhận và sử dụng.

      Hiện nay, ông còn tiếp tục nghiên cứu các vật liệu mới có tính năng ưu việt như pentagraphin, các compozit được gia cường bởi các ống nano carbon (CNT), graphene,… giúp tăng cường đáng kể độ bền cơ học, độ dẫn nhiệt và điện – hướng tới các ứng dụng trong lĩnh vực điện tử, năng lượng tái tạo, lưu trữ thông tin và hàng không vũ trụ. 

      Trong suốt quá trình hoạt động khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố gần 400 bài báo, công trình khoa học, trong đó có hơn 220 bài trên các tạp chí quốc tế trong danh mục ISI. Trong 6 năm liên tiếp từ 2019 đến nay, GS Nguyễn Đình Đức liên tục lọt top 10.000 nhà khoa học có chỉ số công bố, nghiên cứu ảnh hưởng nhất thế giới, và đứng thứ 78 trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ trong năm 2024.

       Với những cống hiến xuất sắc cho khoa học, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ông cũng đã vinh dự được chọn là đại biểu chính thức dự Đại hội anh hùng và chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ VI (năm 2000) tại Hà Nội, đước Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba (2016) và Huân Chương Lao động hạng nhì (2022), được tôn vinh là trí thức KHCN Việt Nam tiêu biểu năm 2024.

         Các nghiên cứu có hàm lượng tri thức, hàm lượng khoa học cũng như tính ứng dụng cao, khẳng định tầm vóc nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu tiên tiến. Các nghiên cứu kiên trì bền bì và cống hiến của Giáo sư Nguyễn Đình Đức suốt hơn 30 năm qua đã làm nên một trường phái về compozit 3 pha tiên tiến của Việt Nam với tên tuổi và uy tín được cộng đồng khoa học quốc tế biết đến, ghi nhận và đánh giá cao.

                                                        ——————–


[1] Viện đã có hơn 38 năm kinh nghiệm và là một trong những đơn vị uy tín, lâu đời trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, thiết kế chế tạo, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực tàu thuyền và hậu cần nghề cá bằng vật liệu compozit ở Việt Nam. 

1. Tên cụm công trình được đề nghị xét tặng Giải thưởng: Nghiên cứu và ứng dụng vật liệu và kết cấu compozit ba pha tiên tiến trong kỹ thuật

2. Lĩnh vực khoa học của công trình: Công nghệ kỹ thuật

3. Tác giả: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN

4. Tóm tắt: 

          Cụm công trình đăng ký giải thưởng là kết quả của sự phát hiện ra một cấu trúc vật liệu compozit cacbon-cacbon mới có cấu trúc không gian 3 pha với tính năng siêu bền cơ học, siêu bền nhiệt và siêu nhẹ, có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng, đặc biệt trong công nghệ chế tạo tên lửa. Chính vì vậy, vật liệu này được các siêu cường quốc đặt trọng tâm nghiên cứu. Ý tưởng nghiên cứu về loại vật liệu compozit cácbon mới siêu bền như vậy nhằm cải thiện về tầm bắn, thời gian bay cho tên lửa, gắn liền với luận án tiến sỹ khoa học của GS. Nguyễn Đình Đức tại PTN Vật liệu compozit của Viện nghiên cứu chế tạo máy, Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô – một trong những PTN tiên tiến và hiện đại nhất về vật liệu compozit của thế giới từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX và là nơi làm việc của những giáo sư, viện sỹ hàng đầu của Nga.

          Sau nhiều năm nghiên cứu, , Giáo sư Nguyễn Đình Đức nhận thấy tính chất của vật liệu compozit phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ chế tạo và cấu trúc, phân bố của các vật liệu thành phần.  Muốn thay đổi tính năng của compozit trong khi công nghệ và vật liệu đầu vào không thay đổi, thì yếu tố then chốt là phải tìm cách để thay đổi kết cấu, cấu trúc và tỷ lệ các vật liệu thành phần, từ đó tạo ra compozit mới có độ bền tốt hơn. Trên cơ sở đó, ông đã đề xuất mô hình compozit 3 pha gồm vật liệu nền, các sợi gia cường và các hạt, và đã chứng minh vật liệu compozit 3 pha có cấu trúc không gian 3 chiều (3D), hoặc 4 chiều (4D) có tính năng vượt trội, là vật liệu compozit có cấu trúc bền cơ học nhất. Không chỉ là vật liệu siêu bền, mà compozit cacbon còn siêu nhẹ và siêu bền nhiệt, loại vật liệu này có thể chịu được nhiệt độ lên đến vài nghìn độ.

         Sự phát hiện của Giáo sư Nguyễn Đình Đức là lời giải đáp mà nhiều nhà vật lý và công nghệ vật liệu  lúc đó chưa thể giải quyết được để nâng cao tính năng cơ lý của vật liệu compozit. Từ những kết quả nghiên cứu về kết cấu vật liệu lý tưởng 3D, 4D của ông đã công bố, có thể ứng dụng để thiết kế và chế tạo nhiều sản phẩm phục vụ đời sống và an ninh quốc phòng.

Hiện nay, hầu hết tất cả các loa phụt của động cơ tên lửa đều là compozit cacbon-cacbon 3 pha có cấu trúc không gian 3D hoặc 4D, và chi tiết này góp phần quan trong đẩy tầm bắn của tên lửa từng bước được nâng lên từ 5.000 km lên tầm bắn xa nhất đạt đến khoảng 10.000 km như hiện nay.

          Những kết quả nghiên cứu trên đây đã được Giáo sư Đức công bố rộng rãi trên các tạp chí khoa học hàng đầu thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành vật liệu mới trên thế giới trong lĩnh vực công nghiệp và an ninh quốc phòng. Nghiên cứu của GS. Nguyễn Đình Đức đã được cộng đồng các nhà khoa học quốc tế thừa nhận và đánh giá rất cao. Đây cũng là lý do ông được mời tham gia vào Hội đồng khoa học của các tạp chí ISI lớn, có uy tín của quốc tế như Acta Mechanica (Nhà xuất bản Springer), tạp chí hàng đầu về khoa học và công nghệ hàng không vũ trụ  Aerospace Science and Technology (Nhà Xuất bản Elsevier), tạp chí về toán và cơ học ứng dụng ZAMM (Nhà xuất bản Willey) và nhiều tạp chí ISI có uy tín khác của cộng đồng khoa học quốc tế; được  mời làm báo cáo  tại phiên toàn thể của những Hội nghị quốc tế lớn về vật liệu.

          Điểm đặc biệt là những kết quả nghiên cứu cơ bản về compozit 3 pha của ông cũng phù hợp với cả vật liệu compozit khác như compozit nền polymer, compozit nền kim loại, nền gốm và các nền phi kim loại khác.

           Trong quá trình nghiên cứu tại Việt Nam, ông đã thành lập nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, từ đó đã hình thành nên một Trường phái khoa học thuộc lĩnh vực này nhằm tiếp tục nghiên cứu, đào tạo các tài năng trẻ cho đất nước và  nghiên cứu ứng dụng kết quả khoa học vào thực tế,. Năm 2010-2012, Giáo sư Đức đã phối hợp với Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang[1], ứng dụng thành công trong việc chống thấm cho đà máy tàu thủy bằng compozit polymer 3 pha khi bổ sung các hạt Titan oxit. Kết quả công trình nghiên cứu của ông  đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế (GPHI) năm 2016. Nhờ áp dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang đã nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, liên tục phát triển, đã đóng hơn 60 tàu compozit trong lĩnh vực tàu thuyền và hậu cần nghề cá, với tổng doanh thu trên 300 tỷ đồng. Điều này cho thấy đóng góp của Giáo sư Nguyễn Đình Đức không chỉ là những phát hiện mới trong nghiên cứu khoa học mà kết quả của nó còn được ứng dụng thành công trong thực tiễn ở Việt Nam, là sự kết hợp hài hòa giữa  nhà trường, nhà khoa học với doanh nghiệp. Giải pháp của Giáo sư Nguyễn Đình Đức độc đáo ở chỗ có tính toán khoa học, giúp chọn cấu trúc và những tỷ lệ sợi và hạt một cách tối ưu và phù hợp nhất về giá thành và tính năng kỹ thuật trong hoàn cảnh công nghệ hiện có, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của các tàu bằng compozit của Việt Nam, từ đó đem lại những hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị tiếp nhận và sử dụng.

      Hiện nay, ông còn tiếp tục nghiên cứu các vật liệu mới có tính năng ưu việt như pentagraphin, các compozit được gia cường bởi các ống nano carbon (CNT), graphene,… giúp tăng cường đáng kể độ bền cơ học, độ dẫn nhiệt và điện – hướng tới các ứng dụng trong lĩnh vực điện tử, năng lượng tái tạo, lưu trữ thông tin và hàng không vũ trụ. 

      Trong suốt quá trình hoạt động khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố gần 400 bài báo, công trình khoa học, trong đó có hơn 220 bài trên các tạp chí quốc tế trong danh mục ISI. Trong 6 năm liên tiếp từ 2019 đến nay, GS Nguyễn Đình Đức liên tục lọt top 10.000 nhà khoa học có chỉ số công bố, nghiên cứu ảnh hưởng nhất thế giới, và đứng thứ 78 trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ trong năm 2024.

       Với những cống hiến xuất sắc cho khoa học, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ông cũng đã vinh dự được chọn là đại biểu chính thức dự Đại hội anh hùng và chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ VI (năm 2000) tại Hà Nội, đước Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba (2016) và Huân Chương Lao động hạng nhì (2022), được tôn vinh là trí thức KHCN Việt Nam tiêu biểu năm 2024.

         Các nghiên cứu có hàm lượng tri thức, hàm lượng khoa học cũng như tính ứng dụng cao, khẳng định tầm vóc nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu tiên tiến. Các nghiên cứu kiên trì bền bì và cống hiến của Giáo sư Nguyễn Đình Đức suốt hơn 30 năm qua đã làm nên một trường phái về compozit 3 pha tiên tiến của Việt Nam với tên tuổi và uy tín được cộng đồng khoa học quốc tế biết đến, ghi nhận và đánh giá cao.

                                                        ——————–


[1] Viện đã có hơn 38 năm kinh nghiệm và là một trong những đơn vị uy tín, lâu đời trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, thiết kế chế tạo, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực tàu thuyền và hậu cần nghề cá bằng vật liệu compozit ở Việt Nam. 

Giáo sư Nguyễn Đình Đức làm Chủ tịch hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Ngày 08/5/2025, Hội đồng đã họp phiên thứ nhất bầu các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng, cũng như thống nhất lịch làm việc của Hội đồng trong đợt xét Giáo sư, phó giáo sư năm 2024. Trước đó, vào ngày 7/5/2025, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN đã ký quyết định số 935/QĐ-ĐHCN thành lập Hội đồng Giáo sư cơ sở năm 2025. Hội đồng gồm 9 thành viên.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư của nhà trường, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng, làm Phó Chủ tịch và PGS.TS Trần Văn Quảng – Phó Trưởng phòng Đào tạo làm Thư ký Hội đồng.

GS Nguyễn Đình Đức đã liên tục tham gia Hội đồng Giáo sư cơ sở của nhà trường từ 2009 đến nay, tham gia Hội đồng giáo sư ngành Cơ học từ 2014 đến nay. Ông đã công bố 400 công trình khoa học, trong đó có gần 250 bài trên các tạp chí quốc tế ISI.  Từ năm 2019 đến nay, ông liên tiếp lọt vào top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới và top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới  trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) – đứng thứ 74 thế giới trong năm 2024.

Cũng theo thông tin từ Hội đồng, năm 2025 có 20 ứng viên đăng ký xét chức danh tại Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN, trong đó có 3 ứng viên đăng ký xét chức danh giáo sư, và 17 ứng viên đăng ký xét chức danh Phó giáo sư.

Danh sách Hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN năm 2025 (Quyết định số 935/QĐ-ĐHCN)

(UET-News)

Xem thêm:

Professor Nguyen Dinh Duc: A Distinguished Scientist, a Devoted Teacher, and a Mentor Who Nurtures the Talents of Future Generations

Professor Nguyen Dinh Duc is one of Vietnam’s leading experts in Advanced Materials and Composite Structures. Renowned not only for his world-class scientific achievements, he is also revered as a dedicated educator who has tirelessly cultivated talents for the nation. Throughout his life, he has devoted himself wholeheartedly to the advancement of science and education in Vietnam.

A Pioneer in Science

As a trailblazer in the field of advanced materials in Vietnam, Professor Duc – Dean of the Faculty of Civil and Transportation Engineering, Former chairman of the university council of UET – has consistently aligned his research with international standards. To date, he has published over 400 scientific works, including more than 220 articles in ISI-indexed international journals.

5 years, between 2020 and 2025 alone, Professor Duc has authored 86 papers in prestigious ISI journals, all of which are ranked in Q1 or Q2 tiers. Remarkably, 17 of these papers (representing 19.7% of his international publications) were featured in the world’s top 5% of ISI journals.

Professor Duc holds a patent for a three-phase composite material reinforced with fiberglass and nanoparticles, successfully applied in Vietnam. Beyond fundamental and applied research, he and his team are now pioneering the use of artificial intelligence in solving complex engineering problems. His research focuses on cutting-edge materials such as thermally ultra-durable carbon nanocomposites for defense applications; multi-phase polymer composites for shipbuilding and civilian use; and advanced materials and structures like FGM, auxetics, pentagraphene, and smart materials with tunable mechanical properties, high strength, thermal insulation, and electrical conductivity for industries ranging from energy and electronics to microchips and semiconductors.

He established the Laboratory for Advanced Materials and Structures—a hub for research and talent development – which laid the foundation for a prestigious scientific school in Vietnam. Under his leadership, this research school at Vietnam National University (VNU) has formed equitable partnerships with top global laboratories and scientists from the United States, Russia, Japan, South Korea, China, the UK, Germany, Australia, and Canada,… His research directions are clear proof of international integration and high practical value.

Professor Duc’s recognition includes invitations to serve on the editorial boards of many high-ranking international journals such as Aerospace Science and Technology (Elsevier), Journal of Mechanical Engineering Science (SAGE), ZAMM (Wiley), and Acta Mechanica (Springer). He has also delivered plenary talks at major international conferences. As the head of VNU’s strong research group in advanced materials and structures, the lab he founded has become an incubator of innovative ideas for many generations of young scientists.

A Mentor Who Shapes Generations of Global Talents

In addition to his research excellence, Professor Duc is an exemplary educator – a quiet yet powerful force behind the dreams of countless students. His lectures not only convey knowledge but also ignite a passion for discovery, a resilient spirit, and a thirst for learning. For him, teaching is not merely about imparting knowledge – it is about inspiring vision, nurturing scientific integrity, and shaping character.

Many of his students have become prominent leaders at research institutes and universities. Two of his students have received the prestigious Nguyen Van Dao Award – the highest honor in Vietnam’s mechanics community. One of his mentees was honored by Forbes Vietnam. Many of his students have won first prizes in university, national, and ministerial-level research competitions and were accepted directly into doctoral programs upon graduation. Outstanding names include Hoang Van Tung, Vu Thi Thuy Anh, Tran Quoc Quan, Pham Hong Cong, Pham Dinh Nguyen, Pham Toan Thang, Trinh Duc Truong, Vu Dinh Quang, and Nguyen Dinh Khoa,…- remarkable seeds of talent cultivated under his care.

Between 2020 and 2025, nine of his PhD students successfully defended their dissertations. Among them is Dr. Trinh Duc Truong, who rose from a humble provincial background to become a researcher at Micron, a leading U.S. semiconductor company, after earning his PhD in Japan. Vu Dinh Quang completed his PhD in Ireland, while Dr. Pham Toan Thang did so in South Korea.

Moreover, many young PhDs from various institutions – including the University of Science, VNU International School, Vietnam-Japan University, the Military Technical Academy, the University of Transport and Communications, the University of Civil Engineering, and Hanoi University of Science and Technology – have joined his research group and received his academic guidance, spreading state-of-the-art knowledge and achieving significant research outcomes.

From 2020 to 2025, Professor Duc also authored two specialized textbooks in both Vietnamese and English, contributing significantly to the theoretical foundation of advanced mechanics and material engineering in Vietnam.

A Lifetime Devoted to Knowledge and Education

Over more than four decades in scientific research and educational leadership, Professor Nguyen Dinh Duc has made lasting contributions in every role – educator, scientist, and administrator. He has served as Head of the Department of Science and Technology, Head of Academic Affairs Department, Vice Rector of the University of Engineering and Technology (UET), and Chairman of the University Council. Currently, he is Dean of the Faculty of Civil and Transportation Engineering. From 2020 – 2025, he has led 12 research projects, including two national-level projects, two fundamental research projects under the NAFOSTED Foundation, and four ministerial-level projects.

During this same period, he has been recognized for five consecutive years as an outstanding grassroots-level emulation fighter, once at the VNU level, and twice at the Ministry of Education and Training level. He has received nine Certificates of Merit from the VNU President, three from the Minister of Education and Training, one from the Vietnam Union of Science and Technology Associations, and one from the Vietnam Education Trade Union.

In 2022, he was one of only three professors from VNU honored by the Ministry of Education and Training as Outstanding Educators over 40 years (1982–2022), alongside Professor Mai Trong Nhuan – Former President of VNU Hanoi, and Professor Le Ngoc Thanh – Rector of University of Medicine and Pharmacy, VNU Hanoi. That same year, he was awarded the Second-Class Labor Medal by the President of Vietnam for his outstanding contributions to national development.

From 2019 to 2024, for six consecutive years, Professor Nguyen Dinh Duc has been named among the world’s top 10,000 most influential scientists by PLOS Biology and was ranked 74th globally in Engineering in 2024. He was also honored as an exemplary Vietnamese scientist and elected to the Central Committee member of the Vietnam Fatherland Front as one of the nation’s most distinguished intellectuals.

From the small village of Lai Xa in Hoai Duc District, Hanoi – a land known for its scholarly tradition – through the hardships of his youth in the first gifted math class in the remote northern province of Hoang Lien Son, Professor Nguyen Dinh Duc has risen to become one of Vietnam’s foremost scientists. From lecture halls to laboratories, from Vietnam to the global stage, he continues to inspire, to guide, and to contribute tirelessly to the progress of Vietnamese science and education.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Nhà khoa học hàng đầu Việt Nam, người thầy ươm mầm cho những tài năng thế hệ trẻ tương lai

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong những chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu Tiên tiến và CompositeKhông chỉ nổi bật với các thành tựu nghiên cứu khoa học mang tầm quốc tế, Giáo sư còn được biết đến là người thầy đào tạo nguồn nhân tài cho đất nước. Suốt cuộc đời mình, ông đã dành trọn tâm huyết để phụng sự cho khoa học và nền giáo dục nước nhà.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông

Nhà khoa học của những nghiên cứu tiên phong

Không chỉ là người tiên phong trong lĩnh vực vật liệu mới ở Việt Nam, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông còn luôn đưa nghiên cứu của mình hội nhập quốc tế. Đến nay, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố 400 bài báo, công trình khoa học, trong số đó có hơn 220 bài trên các tạp chí quốc tế ISI.

Chỉ riêng trong giai đoạn 5 năm 2020-2025, Giáo sư Nguyễn Đình Đức là tác giả của 86 bài đăng trên các tạp chí ISI uy tín và 100% đều thuộc nhóm Q1, Q2, đặc biệt có 17 bài (chiếm 19,7% công bố quốc tế) trong nhóm các tạp chí ISI top 5% thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng đã có bằng sáng chế về vật liệu composite 3 pha được gia cường bởi sợi thủy tinh và các hạt nano, được ứng dụng thành công tại Việt Nam. Không chỉ nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, gần đây nhất Giáo sư Nguyễn Đình Đức và nhóm nghiên cứu đang tiếp tục tiên phong ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các bài toán kỹ thuật. Nổi bật trong hành trình khoa học của Giáo sư là tập trung nghiên cứu về các vật liệu mới trên thế giới hiện nay như vật liệu composite nano cácbon siêu bền nhiệt được ứng dụng trong an ninh quốc phòng; vật liệu composite polymer nhiều pha, ứng dụng trong công nghệ đóng tàu và các sản phẩm dân dụng; vật liệu và kết cấu tiên tiến như FGM, auxetic, pentagraphin và các vật liệu thông minh, có cơ lý tính biến đổi, độ bền cao, chịu nhiệt độ cao, cách điện, cách nhiệt, ứng dụng trong các ngành công nghiệp, năng lượng, lưu trữ thông tin, chip vi mạch và bán dẫn. Đây đều là những hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại trên thế giới hiện nay. Trên cơ sở đó, ông đã xây dựng Phòng thí nghiệm vật liệu và kết cấu tiên tiến để vừa nghiên cứu, vừa đào tạo nhân tài cho đất nước. Từ đó đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Đại học Quốc gia Hà Nội và ở Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Đình Đức đứng đầu và rất có uy tín, được biết đến rộng rãi ở trong và ngoài nước, có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các phòng thí nghiệm và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Vương quốc Anh, Đức, Úc, Canada,… Những hướng nghiên cứu hiện đại này là minh chứng rõ nét cho sự hội nhập với trình độ quốc tế và tính ứng dụng và giá trị thực tiễn cao của các công trình khoa học do Giáo sư chủ trì.

Đó chính là những lý do Giáo sư Nguyễn Đình Đức được mời làm thành viên của Hội đồng biên tập của nhiều tạp chí quốc tế có uy tín như Aerospace Science and Technology (SCI journal, nhà xuất bản Elsevier), Journal of Mechanical Engineering Science (SCI journal, nhà xuất bản SAGE), Journal of Applied Mathematics and Mechanics  – Zeitschrift für Angewandte Mathematik und Mechanik, ZAMM (SCI journal, nhà xuất bản Wiley),  Journal of Acta Mechanica  (SCI journal, nhà xuất bản Springer),.. và đã được mời báo cáo tại phiên toàn thể của nhiều hội nghị quốc tế lớn trên thế giới. Là trưởng nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến của ĐHQGHN – phòng thí nghiệm do Giáo sư Đức sáng lập trở thành nơi hội tụ và ươm mầm các ý tưởng sáng tạo của nhiều thế hệ nghiên cứu trẻ.

Người thầy đào tạo, kiến tạo cho nhiều thế hệ tài năng trẻ vươn tầm quốc tế

Không chỉ nổi bật trong nghiên cứu, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức còn là một nhà giáo mẫu mực – người thầy âm thầm chắp cánh cho ước mơ của bao thế hệ sinh viên. Những bài giảng của Giáo sư không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn khơi dậy niềm say mê nghiên cứu, tinh thần vượt khó và khát vọng chinh phục tri thức. Với thầy, giảng dạy không đơn thuần là truyền thụ kiến thức, mà là khơi mở tầm nhìn, hun đúc bản lĩnh khoa học và nhân cách người học.

Nhiều học trò của Giáo sư đã thành công trong sự nghiệp, trở thành lãnh đạo các viện nghiên cứu, chủ nhiệm các bộ môn ở các trường đại học lớn. Hai học trò của ông đã được nhận giải thưởng Nguyễn Văn Đạo – giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học Việt Nam, một học trò của ông đã được Forbes Việt Nam vinh danh. Đặc biệt, không ít sinh viên do thầy trực tiếp hướng dẫn đã giành giải nhất nghiên cứu khoa học cấp trường, cấp ĐHQGHN, cấp Bộ và được chuyển tiếp nghiên cứu sinh ngay sau tốt nghiệp. Đó là những cái tên như Hoàng Văn Tùng, Vũ Thị Thùy Anh, Trần Quốc Quân, Phạm Hồng Công, Phạm Đình Nguyện, Phạm Toàn Thắng, Trịnh Đức Trường, Vũ Đình Quang, Nguyễn Đình Khoa,… – những hạt giống đỏ trong hành trình bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Chỉ riêng giai đoạn 2020 – 2025, 9 nghiên cứu sinh của ông đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án và nhận bằng tiến sĩ. Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng kiến tạo và dìu dắt nhiều học trò trưởng thành và làm việc ở những công ty hàng đầu thế giới, điển hình như TS. Trịnh Đức Trường, từ một sinh viên tốt nghiệp đại học ở tỉnh lẻ, trong quá trình học sau đại học, được ông dìu dắt đã đam mê khoa học, không chỉ có bài đăng trên tạp chí quốc tế, bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ trong nước, mà đã giành được học bổng và bảo vệ xuất sắc luận án tiến sỹ tại Nhật Bản, hiện nay đang làm việc ở Công ty Micron – Công ty hàng  đầu về chip bán dẫn của Hoa Kỳ; Vũ Đình Quang đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại Ireland; Phạm Toàn Thắng đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại Hàn Quốc;…

Bên cạnh đó, nhiều tiến sỹ trẻ không chỉ ở Trường Đại học Công nghệ, mà còn từ nhiều nơi khác như Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Trường Quốc tế, Trường Đại học Việt Nhật, Học Viện Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Xây dựng, Đại học Bách Khoa Hà Nội,… cùng tham gia nhóm nghiên cứu và được ông dìu dắt về học thuật. Trên cơ sở đó, những kiến thức, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học luôn được cập nhật mới nhất, lan tỏa và mang lại hiệu quả cao.      

Trong giai đoạn 2020 – 2025, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã xuất bản 02 đầu sách chuyên khảo, giáo trình bằng tiếng Việt và Anh – góp phần xây dựng nền tảng lý thuyết vững chắc cho ngành kỹ thuật vật liệu và cơ học tiên tiến tại Việt Nam.

Một đời cống hiến cho tri thức và sự nghiệp đào tạo

Trải qua hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục, dù ở bất cứ cương vị công tác nào – vai trò nhà giáo, nhà khoa học hay nhà quản lý, Giáo sư Nguyễn Đình Đức không ngừng đóng góp vào sự phát triển của ĐHQGHN qua nhiều vị trí quản lý quan trọng: Trưởng ban Khoa học Công nghệ, Trưởng ban Đào tạo, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ và hiện là Chủ nhiệm Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông. Từ năm 2020 – 2025, Giáo sư cũng đã và đang chủ trì 12 đề tài nghiên cứu các cấp – trong đó có 2 đề tài cấp Nhà nước, 2 đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Nafosted và 4 đề tài cấp Bộ.

Dù ở bất cứ cương vị công tác nào – vai trò nhà giáo, nhà khoa học hay nhà quản lý, Giáo sư Nguyễn Đình Đức không ngừng đóng góp vào sự phát triển của ĐHQGHN nói chung và Trường ĐH Công nghệ nói riêng

Trong giai đoạn 5 năm 2020 – 2025, Giáo sư Nguyễn Đình Đức liên tục được công nhận 5 năm liền là chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, 1 lần chiến sỹ thi đua cấp ĐHQGHN và 2 lần Chiến sỹ thi đua cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo; đã vinh dự được nhận 9 Bằng khen của Giám đốc ĐHQGHN vì thành tích xuất sắc trong các mặt công tác, 3 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo, 1 Bằng khen của Liên hiệp Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam, 1 Bằng khen của Công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam.

Năm 2022, Giáo sư Nguyễn Đình Đức vinh dự là một trong ba giáo sư của ĐHQGHN, cùng với Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Mai Trọng Nhuận – nguyên Giám đốc ĐHQGHN và Giáo sư Lê Ngọc Thành, Thầy thuốc nhân dân – Hiệu trưởng Trường Đại học Y dược, ĐHQGHN được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận và tôn vinh là nhà giáo tiêu biểu trong 40 năm sự nghiệp giáo dục (1982 – 2022). Cũng trong năm này, ông đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng II vì những đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong 6 năm liên tiếp từ 2019 – 2024, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã vinh dự được tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố lọt vào danh sách 10,000 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới, và lọt vào nhóm 100 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong lĩnh vực Engineering – xếp hạng 74 thế giới trong năm 2024. Cũng trong năm 2024, Giáo sư Nguyễn Đình Đức được tôn vinh là trí thức KHCN Việt Nam tiêu biểu và được chọn là một trong những nhân sỹ trí thức tiêu biểu nhất của đất nước được vinh dự tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Từ ngôi làng nhỏ Lai Xá của huyện Hoài Đức – Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là “miền đất học”, trải qua những năm tháng gian khổ khó khăn từ lớp chuyên toán Khóa 1 của tỉnh Hoàng Liên Sơn – nơi địa đầu Tổ quốc, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã nỗ lực không ngừng nghỉ, vươn mình trở thành một trong những nhà khoa học đầu ngành của đất nước. Từ giảng đường đến phòng thí nghiệm, từ trong nước đến quốc tế, Giáo sư luôn là người truyền lửa, dẫn đường cho các thế hệ kế cận, đóng góp bền bỉ cho sự phát triển của nền khoa học và giáo dục Việt Nam.

Giải pháp nào tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế?

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngày 18/11/2024, tại cuộc gặp các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục nhân dịp kỷ niệm 42 năm Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu chỉ đạo, trong đó có giao mục tiêu nhiệm vụ phấn đấu tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế. Cụ thể đến năm 2030, Việt Nam sẽ là 1 trong 3 nước đứng đầu ASEAN về số lượng các công bố quốc tế và chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học; có trường đại học lọt top 100 trường hàng đầu trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngay sau đó vào tháng 12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, đặt ra mục tiêu lấy chuyển đổi số, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là 3 mũi nhọn đột phá đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên tới. Trong đó phát triển công nghệ cao, khoa học công nghệ (KHCN) là gốc, là giá trị cốt lõi.

Để thực hiện thành công mục tiêu này, các nhà khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu có vai trò then chốt. Các trường đại học không vào cuộc, không đổi mới quyết liệt thì giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh được. Giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh thì KHCN không phát triển, đất nước cũng không thể phát triển được như kỳ vọng của Nghị quyết 57.

Năm 2025 là năm bản lề, các trường đại học, viện nghiên cứu bắt tay vào giai đoạn 5 năm 2025-2030 cùng với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, các trường đại học  Việt Nam cần quyết liệt định hướng lại chiến lược phát triển trong giai đoạn mới để thực hiện thành công chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị. Theo ý kiến của tôi, những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt mà các trường đại học, viện nghiên cứu cần khẩn trương bắt tay vào thực hiện, đó là:

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu

 Một trong những tiêu chí quan trọng nhất để lọt vào bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới chính là chất lượng nghiên cứu khoa học. Các trường cần đầu tư mạnh mẽ vào các nhóm nghiên cứu xuất sắc (research groups of excellence) nhằm tạo ra các công trình có ảnh hưởng lớn, được công bố trên các tạp chí ISI, Scopus Q1 có hệ số ảnh hưởng cao. Đại học là nơi sáng tạo các tri thức mới. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu của một cơ sở giáo dục đại học.

Các trường nên khai thác Nghị định 109 cuối năm 2022 của Chính phủ, thành lập các Quỹ phát triển KHCN để có nguồn tài chính đầu tư cho khoa học. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường nghiên cứu liên ngành, đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu mới, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh để có những công trình mang tính đột phá.

Giáo dục đại học Việt Nam cần có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học.

 Đồng thời, cần đặc biệt đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng các mô hình nghiên cứu hiện đại như các phòng thí nghiệm ảo, nghiên cứu dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm tăng tốc độ và hiệu quả nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần quy hoạch và có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để tiến tới làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược liên quan đến Chiến lược phát triển KHCN và an ninh, quốc phòng của Việt Nam như vật liệu mới, bán dẫn và vi mạch, năng lượng, công nghệ hạt nhân, tự động hóa, công nghệ cao trong nông nghiệp, công nghệ sinh học, khoa học sức khỏe, xây dựng và hạ tầng thông minh, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, đồng thời làm nền tảng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho các tập đoàn công nghệ lớn tầm đa quốc gia của Việt Nam ở những lĩnh vực này trong tương lai.

Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao

Thế mạnh cạnh tranh và nguồn tài nguyên lớn nhất của các trường đại học chính là nguồn nhân lực trình độ cao. Để đạt top 100 thế giới, các trường đại học cần có chính sách đột phá xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong nước, thu hút nhân tài, mời gọi các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài, về giảng dạy và nghiên cứu.

 Đồng thời, để tạo nguồn đội ngũ giảng viên và thúc đẩy NCKH, cần đổi mới đào tạo tiến sỹ. Cần xem các nghiên cứu sinh là nguồn lực KHCN của nhà trường, đầu tư học bổng, đề tài nghiên cứu cho nghiên cứu sinh. Gắn đào tạo nghiên cứu sinh với các nhóm nghiên cứu, thông qua các nhóm nghiên cứu. Đẩy mạnh các chương trình đào tạo tiến sĩ chất lượng cao, đặc biệt là mô hình hợp tác đào tạo tiến sĩ (theo mô hình hỗn hợp), nghiên cứu sinh có thời gian đầu ở trong nước, và sau đó có thời gia đi nghiên cứu ở nước ngoài với các trường đại học danh tiếng quốc tế.

Xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài, cũng như thu hút nhân tài về nước làm việc.

Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học; cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế

Tôi phải dùng từ “cải cách” thay cho từ “đổi mới” vẫn dùng khi nói về chương trình đào tạo.

Hiện nay, ở Việt Nam, giáo dục STEM mới được hiểu chỉ ở bậc trung học phổ thông, ở các trường đại học kỹ thuật – công nghệ mà chưa được chú trọng triển khai toàn diện trong các trường đại học. Trong khi đó những nước phát triển, STEM được chú trọng đặc biệt ở bậc đại học. Không làm tốt đào tạo STEM ở bậc đại học, chúng ta không thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để đẩy mạnh phát triển công nghệ cao, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Các chương trình đào tạo không vững về khoa học cơ bản, chúng ta không thể đi sâu, đi xa để nắm các công nghệ lõi và phát triển công nghệ cao.

Các nhà khoa học cần được quan tâm, tạo cơ hội phát triển để đổi mới sáng tạo.

Do đó, trong thời gian tới, cần thực hiện “cải cách” các chương trình đào tạo ở bậc đại học. Chương trình giảng dạy cần được thiết kế theo hướng liên ngành, có nền tảng STEM, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế số. Đặc biệt tăng cường giảng dạy bằng tiếng Anh, tiến tới xây dựng các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên và giảng viên quốc tế.

Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu

Các trường đại học Việt Nam cần chủ động hơn nữa gia nhập các liên minh giáo dục quốc tế, tham gia vào các mạng lưới như ASEAN University Network (AUN), Times Higher Education (THE) Impact Rankings, QS World University Rankings, từ đó tạo cơ hội  hợp tác nghiên cứu, trao đổi sinh viên và giảng viên, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Phát triển các chương trình liên kết đào tạo có chọn lọc với các trường đại học hàng đầu thế giới (chứ không hợp tác tràn lan như những đại đoạn trước), giúp sinh viên Việt Nam có cơ hội học tập, thực tập và làm việc tại các môi trường học thuật tiên tiến. Trên cơ sở đẩy mạnh các chương trình liên kết đào tạo và chương trình đào tạo chất lượng cao bằng tiếng Anh, đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế, từng bước xây dựng thương hiệu học thuật của giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới.

Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Để không bị tụt hậu và phát triển kinh tế số, các trường đại học phải là những nơi tiên phong đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng LLM trong kỷ nghiên tới, ứng dụng và sử dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn (big data) để tối ưu hóa quản lý, giảng dạy và nghiên cứu trong trường đại học.

Đẩy mạnh phát triển các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong trường đại học, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giữa nhà trường, giảng viên, người học với các doanh nghiệp. Nhà trường phải tạo môi trường động lực để giảng viên, sinh viên bên cạnh khát vọng vươn tới đỉnh cao của khoa học công nghệ, phải có hoài bão và khát vọng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Để sản sinh ra các công nghệ cao, các trường đại học, đặc biệt là các trường kỹ thuật-công nghệ trọng điểm cần nhanh chóng đẩy mạnh xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh tầm quốc tế, từ đó xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Centers of Excellence), phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để tạo điều kiện cho các nghiên cứu đỉnh cao, đi sâu vào các công nghệ cao, các công nghệ lõi, có giá trị cao

 Đẩy mạnh tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế

Những năm qua, kể từ khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, tự chủ đại học như luồng gió mới, làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học và khởi sắc giáo dục đại học Việt Nam. Tăng cường tự chủ đại học đảm bảo các trường có đủ quyền tự quyết về tài chính, nhân sự và học thuật để thu hút mọi nguồn lực và đẩy nhanh quá trình phát triển, linh hoạt theo chuẩn quốc tế. Tự chủ đại học chính là “khoán 10” trong giáo dục đại học.

Bên cạnh đó, cần áp dụng các mô hình quản trị đại học tiên tiến. Với các đại học công lập cần áp dụng mô hình quản trị đại học như doanh nghiệp phi lợi nhuận, lấy chất lượng cao, trình độ cao, tinh gọn, hiệu quả làm cốt lõi.

Đảm bảo để các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế như ABET, AACSB, AUN-QA,…Đổi mới hệ thống, tiêu chí, quy trình kiểm định chất lượng chặt chẽ, phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Nâng cao vai trò các hiệp hội chuyên môn trong đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo bậc đại học.

Thay cho lời kết

Trong thời đại CMCN 3.0, chúng ta hay nói đến đại học nghiên cứu. Các nghiên cứu về khoa học giáo dục mới nhất cho thấy trong thời đại CMCN 4.0, mô hình của các trường đại học phải là “Đại học thông minh và đổi mới sáng tạo”, với 3 trụ cột cốt lõi là nghiên cứu, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo”. Các trường đại học Việt Nam và cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần chuyển mình mạnh mẽ theo xu thế này, xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại. Đồng thời, phải đề ra những mục tiêu và giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công Nghị quyết 57 và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, phấn đấu đến năm 2030, chúng ta phải là 1 trong 3 nước top đầu ASEAN về công bố quốc tế và có những trường đại học lọt top 100 thế giới.

Mới đây, ngày 1/2/2025, Clarivate công bố kết quả top 50 trường đại học dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo. Trong danh sách này, các trường đại học của Hoa Kỳ đã chiếm 30/50 trường.

Bên cạnh đó, thống kê 5 nước có đầu tư mạnh nhất thế giới cho KHCN năm 2024 cho thấy đứng đầu là Hoa Kỳ với 3,54% GDP, 982 tỷ USD; sau đó là Trung Quốc, 2,72% GDP, 510 tỷ USD; Nhật Bản, 3,36% GDP, 144,6 tỷ USD; Hàn Quốc, 5,3% GDP, 90,6 tỷ USD; Pháp, 2,23% GDP, 62,5 tỷ USD.

Những số liệu này một lần nữa khẳng định các công nghệ cao, đổi mới sáng tạo được ra đời từ trí tuệ của các nhà khoa học, từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Và cũng là bài học để chúng ta thay đổi nhận thức: Để nhanh chóng hiện thực hóa các kết quả nghiên cứu, cần có sự đầu tư nhanh nhất, tốt nhất, tới tầm, xứng tầm của Nhà nước, sự quyết liệt của các trường đại học, sự đồng hành của các doanh nghiệp và sự thôi thúc đổi mới vươn lên từ mỗi cá nhân nhà khoa học, càng thấy Nghị quyết 57 của TW ra đời vào thời điểm này rất đúng và rất trúng, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước.

Các công nghệ cao, cùng với chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là chìa khóa – “chiếc đũa thần” cho sự tăng trưởng đột phá và vươn mình của Việt Nam lên tầm cao mới. Các trường đại học, viện nghiên cứu, nhà khoa học giữ vai trò then chốt và cần phải bắt tay vào cuộc ngay từ năm mới 2025.

Thực hiện thành công Nghị quyết 57 và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, cần sự quyết tâm cao độ, đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, sự thay đổi quyết liệt trong hành động của Quốc hội khi xây dựng luật và các thể chế, của Chính phủ trong chỉ đạo điều hành, cũng như ban hành các nghị định, chính sách và Chiến lược phát triển KHCN và giáo dục quốc gia; sự thay đổi tư duy và nhận thức, hành động của Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành liên quan; sự chuyển mình mạnh mẽ của các trường đại học, của đội ngũ giảng viên và nhà khoa học, cùng sự chung tay của doanh nghiệp và toàn xã hội…

Nghị quyết 57-NQ/TW: Cơ hội lịch sử để đại học Việt Nam khẳng định vị thế

Thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia.

Ngày 18.11.2024, tại cuộc gặp các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục nhân dịp kỷ niệm 42 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20.11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu chỉ đạo, trong đó có giao mục tiêu nhiệm vụ phấn đấu tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế. Cụ thể, đến năm 2030, Việt Nam nằm trong 3 nước đứng đầu ASEAN về số lượng các công bố quốc tế và chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học; có trường đại học lọt top 100 trường hàng đầu trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngay sau đó vào tháng 12.2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, đặt ra mục tiêu lấy chuyển đổi số, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là 3 mũi nhọn đột phá đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên tới. Trong đó, phát triển công nghệ cao, khoa học công nghệ là gốc, là giá trị cốt lõi.

Để thực hiện thành công mục tiêu này, nhà khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu có vai trò then chốt. Các trường đại học không vào cuộc, không đổi mới quyết liệt thì giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh được. Giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh thì khoa học công nghệ không phát triển, đất nước cũng không thể phát triển được như kỳ vọng của Nghị quyết 57.

Năm 2025 là năm bản lề, các trường đại học, viện nghiên cứu bắt tay vào giai đoạn 5 năm 2025-2030 cùng với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, các trường đại học Việt Nam cần quyết liệt định hướng lại chiến lược phát triển trong giai đoạn mới để thực hiện thành công chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị.

Theo ý kiến của tôi, những những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt là: Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu; Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao; Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học; cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế; Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu; Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; Đẩy mạnh và hoàn thiện tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu

Một trong những tiêu chí quan trọng nhất để lọt vào bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới chính là chất lượng nghiên cứu khoa học. Các trường cần đầu tư mạnh mẽ vào các nhóm nghiên cứu xuất sắc (research groups of excellence) nhằm tạo ra các công trình có ảnh hưởng lớn, được công bố trên các tạp chí ISI, Scopus Q1 có hệ số ảnh hưởng cao. Đại học là nơi sáng tạo các tri thức mới. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu của một cơ sở giáo dục đại học.

Các trường nên khai thác Nghị định 109 cuối năm 2022 của Chính phủ, thành lập các Quỹ phát triển khoa học công nghệ để có nguồn tài chính đầu tư cho khoa học. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường nghiên cứu liên ngành, đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu mới, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh để có những công trình mang tính đột phá.

Đồng thời, cần đặc biệt đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng các mô hình nghiên cứu hiện đại như các phòng thí nghiệm ảo, nghiên cứu dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm tăng tốc độ và hiệu quả nghiên cứu.

Bên cạnh đó, cần quy hoạch và có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để tiến tới làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược liên quan đến Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và an ninh, quốc phòng của Việt Nam như vật liệu mới, bán dẫn và vi mạch, năng lượng, công nghệ hạt nhân, tự động hóa, công nghệ cao trong nông nghiệp, công nghệ sinh học, khoa học sức khỏe, xây dựng và hạ tầng thông minh, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo,… Đồng thời, làm nền tảng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho các tập đoàn công nghệ lớn tầm đa quốc gia của Việt Nam ở những lĩnh vực này trong tương lai.

Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao

Thế mạnh cạnh tranh và nguồn tài nguyên lớn nhất của các trường đại học chính là nguồn nhân lực trình độ cao. Để đạt top 100 thế giới, các trường đại học cần có chính sách đột phá xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong nước, thu hút nhân tài, mời gọi các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài, về giảng dạy và nghiên cứu.

Đồng thời, để tạo nguồn đội ngũ giảng viên và thúc đẩy nghiên cứu khoa học, cần đổi mới đào tạo tiến sĩ. Cần xem các nghiên cứu sinh là nguồn lực khoa học công nghệ của nhà trường, đầu tư học bổng, đề tài nghiên cứu cho nghiên cứu sinh. Gắn đào tạo nghiên cứu sinh với các nhóm nghiên cứu, thông qua các nhóm nghiên cứu. Đẩy mạnh các chương trình đào tạo tiến sĩ chất lượng cao, đặc biệt là hợp tác đào tạo tiến sĩ theo mô hình hỗn hợp (nghiên cứu sinh có thời gian đầu ở trong nước và sau đó có thời gian đi nghiên cứu ở nước ngoài) với các trường đại học danh tiếng quốc tế.

Xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài, cũng như thu hút nhân tài về nước làm việc.

Cần xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài (Hình minh họa)

Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học, cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế

Tôi phải dùng từ “cải cách” thay cho từ “đổi mới” vẫn dùng khi nói về chương trình đào tạo.

Hiện nay, ở Việt Nam, giáo dục STEM mới được hiểu chỉ ở bậc trung học phổ thông, ở các trường đại học kỹ thuật – công nghệ mà chưa chú trọng triển khai toàn diện trong các trường đại học. Trong khi đó những nước phát triển, STEM được chú trọng đặc biệt ở bậc đại học. Không làm tốt đào tạo STEM ở bậc đại học, chúng ta không thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để đẩy mạnh phát triển công nghệ cao, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Các chương trình đào tạo không vững về khoa học cơ bản, chúng ta không thể đi sâu, đi xa để nắm các công nghệ lõi và phát triển công nghệ cao.

Do đó, trong thời gian tới, cần thực hiện “cải cách” các chương trình đào tạo ở bậc đại học. Chương trình giảng dạy cần được thiết kế theo hướng liên ngành, có nền tảng STEM, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế số.

Đồng thời, áp dụng các mô hình đào tạo tiên tiến như blended learning (học tập kết hợp online và offline), personalized learning (học tập cá nhân hóa) nhằm tối ưu hóa trải nghiệm người học.

Đặc biệt, cần tăng cường giảng dạy bằng tiếng Anh, tiến tới xây dựng các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên và giảng viên quốc tế.

Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu

Các trường đại học Việt Nam cần chủ động hơn nữa gia nhập các liên minh giáo dục quốc tế, tham gia vào các mạng lưới như ASEAN University Network (AUN), Times Higher Education (THE) Impact Rankings, QS World University Rankings, từ đó tạo cơ hội hợp tác nghiên cứu, trao đổi sinh viên và giảng viên, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Phát triển các chương trình liên kết đào tạo có chọn lọc với các trường đại học hàng đầu thế giới (chứ không hợp tác tràn lan như những đại đoạn trước), giúp sinh viên Việt Nam có cơ hội học tập, thực tập và làm việc tại các môi trường học thuật tiên tiến.

Trên cơ sở đẩy mạnh các chương trình liên kết đào tạo và chương trình đào tạo chất lượng cao bằng tiếng Anh, đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế, từng bước xây dựng thương hiệu học thuật của giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới.

Sinh viên quốc tế tại Trường Đại học Ngoại thương giao lưu trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của Việt Nam

Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Để không bị tụt hậu và phát triển kinh tế số, các trường đại học phải là những nơi tiên phong đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng LLM trong kỷ nguyên mới, ứng dụng và sử dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn (big data) để tối ưu hóa quản lý, giảng dạy và nghiên cứu trong trường đại học.

Đẩy mạnh phát triển các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong trường đại học, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giữa nhà trường, giảng viên, người học với các doanh nghiệp. Nhà trường phải tạo môi trường động lực để giảng viên, sinh viên bên cạnh khát vọng vươn tới đỉnh cao của khoa học công nghệ, phải có hoài bão và khát vọng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Để sản sinh ra các công nghệ cao, các trường đại học, đặc biệt là các trường kỹ thuật – công nghệ trọng điểm cần nhanh chóng đẩy mạnh xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh tầm quốc tế. Từ đó, xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Centers of Excellence), phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để tạo điều kiện cho các nghiên cứu đỉnh cao, đi sâu vào các công nghệ cao, các công nghệ lõi, có giá trị cao

Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy cần làm tốt mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp và nhà khoa học. Không xây dựng được thể chế và mô hình hoạt động hiệu quả trên cơ sở lợi ích hài hòa của các bên liên quan thì rất khó để thực hiện được đổi mới sáng tạo và thúc đẩy nghiên cứu phục vụ thực tiễn của các trường đại học.

Đẩy mạnh và hoàn thiện tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế

Những năm qua, kể từ khi Luật giáo dục đại học sửa đổi, tự chủ đại học như luồng gió mới, làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học và khởi sắc giáo dục đại học Việt Nam. Tăng cường tự chủ đại học đảm bảo các trường có đủ quyền tự quyết về tài chính, nhân sự và học thuật để thu hút mọi nguồn lực và đẩy nhanh quá trình phát triển, linh hoạt theo chuẩn quốc tế. Tự chủ đại học chính là “khoán 10” trong giáo dục đại học.

Tuy nhiên, trong mấy năm thực hiện, bên cạnh những thành tựu, cũng xuất hiện những hạn chế, bất cập từ thực tiễn mà chúng ta chưa lường hết được. Do đó, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh và hoàn thiện mô hình tự chủ đại học, để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Bên cạnh đó, cần áp dụng các mô hình quản trị đại học tiên tiến. Với các đại học công lập cần áp dụng mô hình quản trị đại học như doanh nghiệp phi lợi nhuận, lấy chất lượng cao, trình độ cao, tinh gọn, hiệu quả làm cốt lõi.

Đảm bảo để các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế như ABET, AACSB, AUN-QA,… Đổi mới hệ thống, tiêu chí, quy trình kiểm định chất lượng chặt chẽ, phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Nâng cao vai trò các hiệp hội chuyên môn trong đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo bậc đại học.

Trong thời đại CMCN 3.0, chúng ta hay nói đến đại học nghiên cứu. Các nghiên cứu về khoa học giáo dục mới nhất cho thấy trong thời đại CMCN 4.0, mô hình của các trường đại học phải là đại học Thông minh và Đổi mới sáng tạo, với 3 trụ cột cốt lõi là nghiên cứu, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Các trường đại học Việt Nam và cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần chuyển mình mạnh mẽ theo xu thế này, xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại.

Đồng thời, phải đề ra những mục tiêu và giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công Nghị quyết 57 và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, phấn đấu đến 2030, chúng ta phải là một trong 3 nước top đầu ASEAN về công bố quốc tế và có những trường đại học lọt top 100 thế giới.

Mới đây, ngày 1.2.2025, Clarivate vừa công bố kết quả top 50 trường đại học dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo (Innovation), được phân tích, xác định và từ đó xếp hạng các trường đại học có tên trong các bài báo khoa học được trích dẫn cao nhất từ các bằng sáng chế được cấp cho các công ty và các tổ chức từ cơ sở dữ liệu Clarivate 2024. Trong danh sách này, các trường đại học của Hoa Kỳ đã chiếm 30/50.

Bên cạnh đó, thống kê 5 nước có đầu tư mạnh nhất thế giới cho khoa học công nghệ năm 2024 cho thấy đứng đầu là Hoa Kỳ, 3,54% GDP, 982 tỷ USD; sau đó là Trung Quốc, 2.72% GDP, 510 tỷ USD; Nhật Bản, 3,36% GDP, 144,6 tỷ USD; Hàn Quốc, 5,3% GDP, 90,6 tỷ USD; Pháp, 2,23% GDP, 62,5 tỷ USD.

Những số liệu này một lần nữa khẳng định các công nghệ cao, đổi mới sáng tạo được ra đời từ trí tuệ của các nhà khoa học, từ các trường đại học, viện nghiên cứu, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của các trường đại học và cũng là bài học để chúng ta thay đổi nhận thức.

Theo đó, để nhanh chóng hiện thực hóa các kết quả nghiên cứu, cần có sự đầu tư nhanh nhất, tốt nhất, tới tầm, xứng tầm của Nhà nước, sự quyết liệt của các trường đại học, sự đồng hành của các doanh nghiệp và sự thôi thúc đổi mới vươn lên từ mỗi cá nhân nhà khoa học. Càng thấy Nghị quyết 57 của Trung ương ra đời vào thời điểm này rất đúng và rất trúng, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước.

Các công nghệ cao, cùng với chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là chìa khóa – chiếc đũa thần cho sự tăng trưởng đột phá và vươn mình của Việt Nam lên tầm cao mới: quốc gia giàu mạnh, hùng cường, sánh vai các cường quốc năm châu trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước. Các trường đại học, viện nghiên cứu, nhà khoa học giữ vai trò then chốt và cần phải bắt tay vào cuộc ngay từ năm mới 2025.

Thực hiện thành công Nghị quyết 57 và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia.

Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, cần sự quyết tâm cao độ, đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, sự thay đổi quyết liệt trong hành động từ Quốc hội khi xây dựng luật và các thể chế, của Chính phủ trong chỉ đạo điều hành, cũng như ban hành các nghị định, chính sách và Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ và Giáo dục quốc gia; sự thay đổi tư duy và nhận thức, hành động của Bộ Tài chính, Bộ GD-ĐT, Bộ KHCN và các bộ ngành liên quan; sự chuyển mình mạnh mẽ của các trường đại học, của đội ngũ giảng viên và nhà khoa học, cùng sự chung tay của doanh nghiệp và toàn xã hội.

Chúng ta đã có những lĩnh vực lọt vào top 500 thế giới. Nếu chúng ta đồng lòng thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chiến lược trên, tôi tin rằng trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ có những trường đại học vươn tầm top 50-100 thế giới, đóng góp quan trọng vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN