Góp ý văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Việt Nam không chỉ tham gia hội nhập mà có thể định hình hội nhập

(CLO) Các trường đại học cần chú trọng công bố quốc tế, xếp hạng và tạo ra các sản phẩm khoa học – công nghệ có giá trị thực tiễn, góp phần giải quyết các thách thức khu vực như năng lượng, môi trường, đô thị thông minh.

Trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã chỉ ra 4 hướng đột phá then chốt để đạt mục tiêu các cơ sở giáo dục đại học thành trung tâm khoa học – công nghệ tầm khu vực, trở thành đối tác ngang hàng trong chuỗi tri thức toàn cầu.

Văn kiện xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhưng chất lượng và điều kiện học tập giữa các vùng miền vẫn chênh lệch sâu sắc. Theo Giáo sư, đâu là “điểm nghẽn” cần tháo gỡ để không ai bị bỏ lại phía sau?

Nghị quyết 71/NQ-TW xác định giáo dục là nền tảng giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc. Những năm qua, ngành giáo dục và đào tạo của chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy sự chênh lệch về chất lượng và điều kiện học tập giữa các vùng, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vẫn còn rất lớn. Theo tôi, có ba “điểm nghẽn” chủ yếu cần được tháo gỡ.

Thứ nhất, hạ tầng giáo dục chưa đồng đều: nhiều địa phương còn thiếu trường lớp đạt chuẩn, cơ sở vật chất xuống cấp, thiết bị dạy học lạc hậu, và điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin còn hạn chế.

Thứ hai, nguồn nhân lực giáo viên phân bố không cân đối: giáo viên giỏi, giàu kinh nghiệm chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong khi vùng khó khăn thiếu giáo viên cả về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội học tập của học sinh.

Thứ ba, chính sách đầu tư và cơ chế hỗ trợ còn manh mún: chúng ta chưa có chiến lược tổng thể và bền vững để bảo đảm mọi học sinh, dù ở bất kỳ nơi nào, đều được tiếp cận giáo dục có chất lượng tương đương.

Vì vậy, cần đột phá về đầu tư hạ tầng số và đào tạo giáo viên, tăng cường ứng dụng công nghệ và mô hình giáo dục linh hoạt (ví dụ: lớp học kết nối, học liệu mở, nền tảng trực tuyến dùng chung), đồng thời xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ giáo viên về vùng khó khăn. Khi đó, giáo dục thực sự mới trở thành “quốc sách hàng đầu” và nhanh chóng thu hẹp chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng miền.

Mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, phát triển năng lực số ngay từ phổ thông đặt ra rất cao. Nếu thiếu giáo viên đạt chuẩn và hạ tầng đồng bộ, Việt Nam nên ưu tiên thực hiện theo lộ trình nào để tránh hình thức?

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai và phát triển năng lực số ngay từ phổ thông là một định hướng đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Việt Nam trong hội nhập quốc tế và chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, để tránh tình trạng triển khai hình thức, chúng ta cần thực hiện theo lộ trình hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và gắn với thực tế năng lực từng vùng.

Theo tôi, lộ trình nên tập trung vào 3 giai đoạn chính:

Thứ nhất, xây dựng nền tảng hạ tầng và chuẩn năng lực giáo viên tiếng Anh trong các trường phổ thông và cả ở bậc đại học. Giáo dục đại học phải đi đầu và tiên phong, đồng thời trước khi mở rộng đại trà, cần đầu tư đồng bộ vào hệ thống hạ tầng số ở các trường phổ thông, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi; đồng thời tập trung bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh và tin học đạt chuẩn quốc tế, ưu tiên hình thức đào tạo trực tuyến kết hợp và đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giảng dạy, kiểm tra đánh giá để tiết kiệm chi phí và mở rộng tiếp cận.

Thứ hai, thí điểm và nhân rộng có chọn lọc. Nên triển khai thí điểm tại các đô thị lớn và một số tỉnh đại diện cho từng vùng miền để đánh giá hiệu quả, sau đó rút kinh nghiệm và nhân rộng, thay vì triển khai ồ ạt.

Thứ ba, phát triển hệ sinh thái học tập số và học liệu mở, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới và trí tuệ nhân tạo trong dạy và học tiếng Anh. Cần xây dựng kho học liệu song ngữ, nền tảng dạy – học tiếng Anh và năng lực số dùng chung toàn quốc, để mọi học sinh, dù ở đâu, cũng có thể học cùng một nội dung chuẩn.

Quan trọng hơn cả là xem tiếng Anh, ngoại ngữ và năng lực số không phải là môn học riêng biệt, mà là công cụ để học các môn khác, để sống và làm việc trong môi trường toàn cầu hóa. Khi đó, việc học tiếng Anh và kỹ năng số mới thật sự đi vào chiều sâu và bền vững.

Việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam là việc lớn, hệ trọng, lâu dài. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên thành lập Ban chỉ đạo để triển khai thực hiện.

Chính sách ưu đãi vượt trội dành cho đội ngũ nhà giáo và nhà khoa học tiếp tục được nhấn mạnh. Theo Giáo sư, cơ chế nào phải thay đổi đầu tiên để lời hứa “trọng dụng nhân tài” không dừng lại ở văn bản?

Đúng như nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã khẳng định, “trọng dụng nhân tài” và “đãi ngộ người thầy” là nền tảng của phát triển bền vững quốc gia. Gần đây, sau Nghị Quyết 57/NQ-TW, Nhà nước đã có nhiều chính sách cụ thể như Nghị định số 179/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ, Luật KHCN & ĐMST mới được Quốc hội ban hành năm 2025 và gần đây nhất là Quyết định số 983/QĐ-BNV phê duyệt lĩnh vực và vị trí việc làm ưu tiên thu hút, trọng dụng người có tài năng của Bộ Nội vụ giai đoạn 2025 – 2030.

Tuy nhiên, để những chủ trương ấy không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu hay văn bản, điều quan trọng nhất là phải thay đổi cơ chế thực thi – đặc biệt là cơ chế sử dụng, đánh giá và đãi ngộ đội ngũ trí thức.

Văn kiện đề ra mục tiêu các cơ sở giáo dục đại học trở thành trung tâm khoa học – công nghệ tầm khu vực. Theo Giáo sư, đâu là những đột phá then chốt để đạt được điều này?

Để các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thực sự trở thành trung tâm khoa học – công nghệ tầm khu vực, trở thành đối tác ngang hàng trong chuỗi tri thức toàn cầu, theo tôi cần có 4 hướng đột phá then chốt:

Thứ nhất, tăng cường đầu tư và tự chủ thực chất cho các trường đại học nghiên cứu. Các trường đại học nghiên cứu cần được đầu tư mạnh về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại và nguồn kinh phí ổn định cho nghiên cứu. Đồng thời, cần trao quyền tự chủ thực sự về tài chính, nhân sự và học thuật, để các trường có thể chủ động xây dựng chiến lược phát triển riêng, thu hút nhân tài và hợp tác quốc tế.

Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn kết đại học – doanh nghiệp – chính phủ. Các trường đại học cần trở thành trung tâm của hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, nơi nghiên cứu khoa học được chuyển hóa thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị thực tiễn. Điều này đòi hỏi cơ chế linh hoạt để doanh nghiệp tham gia sâu vào đào tạo và nghiên cứu, đồng thời chính phủ cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ chuyển giao công nghệ.

Thứ ba, chú trọng công bố quốc tế, xếp hạng và tạo ra các sản phẩm khoa học – công nghệ có giá trị thực tiễn. Các trường đại học cần đặt mục tiêu rõ ràng về số lượng và chất lượng công bố khoa học trên các tạp chí uy tín quốc tế, đồng thời tham gia tích cực vào các bảng xếp hạng đại học thế giới. Quan trọng hơn, cần tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có tác động thực tế, góp phần giải quyết các thách thức của khu vực như năng lượng, môi trường, đô thị thông minh.

Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút nhân tài toàn cầu. Việt Nam không chỉ “tham gia hội nhập” mà có thể “định hình hội nhập” bằng cách chủ động thiết lập các mạng lưới nghiên cứu quốc tế, đồng tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học lớn, và thu hút các nhà khoa học hàng đầu thế giới về làm việc tại Việt Nam. Cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt và môi trường làm việc chuyên nghiệp để giữ chân nhân tài trong nước và thu hút nhân tài quốc tế.

Posted in Cơ cấu tổ chức and tagged .