NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH CÁI NÔI PHÁT HIỆN, ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC

MÔ HÌNH CÁC PHÒNG THÍ NGHIỆM, KHOA, BỘ MÔN ĐƯỢC THÀNH LẬP TỪ NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN BẰNG NỘI LỰC TRONG NƯỚC CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU, GẮN KẾT CHẶT CHẼ GIỮA ĐÀO TẠO – NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN LÀ MÔ HÌNH MỚI, HIỆU QUẢ VÀ SÁNG TẠO, PHÙ HỢP VỚI CÁC ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM. PHÒNG THÍ NGHIỆM VẬT LIỆU VÀ KẾT CẤU TIÊN TIẾN, TRỰC THUỘC BỘ MÔN CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT XÂY DỰNG GIAO THÔNG, TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ, ĐHQGHN LÀ ĐIỂN HÌNH CHO MÔ HÌNH ĐÓ.

KHỞI NGUỒN TỪ TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI THẦY

Con đường đến với thành công thường không dễ dàng. Khởi đầu với nguồn tài chính bằng “con số 0” để xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến của ĐHQGHN (NNC), năm 2010, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN đã tập hợp, tuyển chọn, dìu dắt những sinh viên đam mê học tập và nghiên cứu khoa học. Ban đầu, nhóm chỉ có thầy và vài trò, nơi làm việc cũng rất đơn sơ, chỉ là phòng làm việc của thầy sau giờ hành chính, giảng đường đã tan học hay quán nước nhỏ bên hè. Nhưng với tâm huyết của người thầy – Trưởng NNC đã tận tâm dìu dắt, chỉ bảo để các em nắm vững kiến thức, không sợ học và còn khơi dậy
được tiềm năng sáng tạo ở các bạn trẻ. “Quan trọng nhất là Trưởng NNC phải cập nhật, hiểu và nắm bắt được những hướng nghiên cứu mới nhất của thế giới để triển khai trong NNC. Trưởng NNC có vai trò định hướng nghiên cứu phù hợp với năng lực và sở trường cho từng nghiên cứu sinh, sinh viên trong nhóm, giao bài tập tính toán, đôn đốc, kiểm tra và thảo luận các kết quả”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết.

Thầy trò cùng nhau cố gắng nỗ lực, miệt mài nghiên cứu. Cứ kiên trì như vậy, công lao của thầy và trò được đền đáp bằng những kết quả nghiên cứu được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín. Đây là nguồn cổ vũ động viên lớn lao đối với thầy và trò, khích lệ sự tự tin và khơi gợi niềm đam mê nghiên cứu khoa học cho những sinh viên khác. Trên cơ sở đó, học trò đến với nhóm nhiều hơn, NNC ngày một đông dần lên. Nhiều em sinh viên trước đây học lực chỉ đạt mức trung bình hoặc khá, nhưng được rèn luyện trong nhóm nghiên cứu, đã trở nên say mê học tập nghiên cứu và sau khi tốt nghiệp đại học đều trở thành sinh viên giỏi và xuất sắc.

CÁI NÔI PHÁT HIỆN, ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI

Mô hình đào tạo của NNC theo hướng cá thể hóa. Điều đó có nghĩa là, trách nhiệm của người đứng đầu NNC rất quan trọng. NNC được tổ chức hoạt động phân cấp theo cơ chế mềm, đứng đầu là các giáo sư, tiếp theo là các tiến sĩ, nghiên cứu sinh rồi đến sinh viên các khóa. “Để nhóm NNC hoạt động hiệu quả trong nghiên cứu, đào tạo đến từng cá nhân, nhóm NNC được chia làm nhiều nhóm nhỏ. Đứng đầu phụ trách mỗi nhóm nhỏ do các tiến sĩ trẻ đảm nhận; chịu trách nhiệm triển khai, đôn đốc các nhiệm vụ khoa học khi được Trưởng nhóm giao phó”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết. Trên cơ sở các hướng nghiên cứu chung, Trưởng NNC là người sẽ giao nội dung, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể cho từng thành viên hoặc cho các nhóm nhỏ dựa trên thế mạnh của họ. Khi nhận được nhiệm vụ từ các GS, các TS trẻ và NCS trong nhóm lại dìu dắt dìu dắt, hỗ trợ cho các em sinh viên. Trong nhóm, những sinh viên năm trên lại có nhiệm vụ giúp đỡ những sinh viên năm dưới mới tham gia vào NNC. Hằng tuần, NNC đều tổ chức seminar khoa học. Đặc biệt, thông qua hoạt động và hợp tác của NNC, các thành viên trong nhóm còn được tham gia các buổi thảo luận, seminar của các GS trong và ngoài nước. Qua đó, những vấn đề mới trong khoa học được đưa ra trao đổi, bàn luận, giải đáp. Điều đó kích thích tính chủ động, trí sáng tạo của các thành viên trẻ.

Để một nhóm nghiên cứu thành công, trước tiên là phải có những người thầy tài năng và tâm huyết dẫn dắt, hai là phải bắt nhịp được theo các nghiên cứu tiên tiến, hiện đại nhất của thế giới. Ba là phải có môi trường đào tạo và nghiên cứu có hàm lượng học thuật cao như ĐHQGHN. Bốn là cần khơi dậy được hoài bão và sự say mê nghiên cứu khoa học của các bạn trẻ. Cuối cùng, rất quan trọng là sự ủng hộ và tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, trang thiết bị và sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường. Đây là những yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công của nhóm nghiên cứu trong trường đại học.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Trong quá trình tham gia NNC, nhiều sinh viên, NCS đã được cử đi thực tập tại các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trường đại học lớn như ĐH Osaka (Nhật Bản), ĐH Birmingham (UK), ĐH Sejong (Hàn Quốc),… Các em trong NNC cũng được tham dự hội thảo khoa học lớn trong nước và quốc tế. Trình độ và kiến thức thực tế của sinh viên, NCS qua đó được nâng cao. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên, NCS có học lực và kết quả nghiên cứu tốt sẽ được giới thiệu chuyển tiếp nghiên cứu sinh hoặc đi làm việc ở nước ngoài. Ngược lại, NNC cũng là môi trường để tiếp nhận các NCS và cán bộ nghiên cứu, TS trẻ của nước ngoài đến trao đổi, nghiên cứu tại Việt Nam. Bên cạnh hoạt động chuyên môn, NNC còn tổ chức những buổi giao lưu khác để tăng cường kết nối các thành viên trong nhóm. Như vậy, có thể thấy, mô hình NNC rất hiệu quả, không chỉ gắn kết việc học với hành mà còn gắn kết các thầy cô, các nhà khoa học với sinh viên, NCS thành một khối thống nhất, trong đó, có sự dìu dắt, chỉ bảo và định hướng, giúp đỡ tận tình từ những người thầy và các thành viên trong nhóm. Trong NNC, mỗi thành viên được làm việc trong môi trường tập thể nhưng được giao nhiệm vụ chuyên môn riêng, được phát triển và thắp sáng tài năng gắn với những năng lực cụ thể của từng cá nhân. Trưởng NNC là người thầy dẫn dắt và thực sự cũng như “người cha đỡ đầu” cho các thành viên trong nhóm. Nó khắc phục được mối quan hệ lỏng lẻo giữa các sinh viên với nhau và các thầy cô giáo trong mô hình đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học hiện nay. Hơn thế, mô hình NNC còn chú trọng giáo dục nhân cách, tinh thần làm việc nhóm, sự hợp tác và các kỹ năng mềm cho NCS, sinh viên một cách hiệu quả. NNC chính là mô hình đào tạo các tài năng theo hướng cá thể hóa và phù hợp với sự chuyển đổi của giáo dục đại học trong bối cảnh CMCN 4.0.

Đến nay, hầu hết các NCS, sinh viên trong nhóm nghiên cứu khi tốt nghiệp đều trở thành các kỹ sư, TS giỏi, đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Một số học trò thành đạt và xuất sắc đã tỏa đi muôn nơi, công tác ở các trường đại học khác nhau trong cả nước. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, điểm đặc biệt là phần lớn các học trò trong nhóm nghiên cứu đều là các em ở các tỉnh xa, nhà nghèo; trong số đó, có những em hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn. Điều đáng trân trọng là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện lúc đầu thiếu thốn về kinh phí, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm.

Liên tiếp trong 3 năm 2019, 2020, 2021, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã được tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố lọt vào top 10.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng trong nghiên cứu xuất sắc nhất của thế giới. Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm 2021, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5949 thế giới, và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering.
Ngày 9/2/2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã vinh dự được Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng nhì vì những đóng góp xuất sắc của ông trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Sự thành công của mô hình này đã cho thấy sức mạnh ưu việt của NNC mạnh trong công tác đào tạo sinh viên, NCS kết hợp với nghiên cứu khoa học để tạo ra nhiều nhân tài trẻ tuổi cho đất nước. Những trí thức trẻ được đào tạo và trưởng thành trong các NNC mạnh “made in Việt Nam 100%” như vậy là nguồn nhân lực chất lượng cao và chính là những nhân tố mới đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

TIẾP CẬN NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỚI, HIỆN ĐẠI

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, để thành công, thì một trong những yếu tố quan trọng nhất của NNC là phải nắm bắt và theo kịp được những hướng nghiên cứu hiện đại nhất của thế giới. Đối với nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh là các lĩnh vực về composite, vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi và vật liệu nano. NNC cũng là cơ sở nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực kết cấu tiên tiến chế tạo từ các vật liệu nano ứng dụng làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng, vật liệu áp điện có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ), các vật liệu mới composite có tính chất đặc biệt sử dụng trong các môi trường điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN. Bên cạnh các hướng nghiên cứu hiện nay, chiến lược phát triển của NNC và tập thể PTN cũng như Bộ môn Xây dựng Giao thông trong những năm tới đây là đi vào những lĩnh vực nghiên cứu hiện đại và gắn với phục vụ thực tiễn là: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu) và Machine learning (với những từ khóa là thông minh, trí tuệ nhân tạo).

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH LÀ TẾ BÀO CỦA HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ nhận thức: “NNC có thể lúc mạnh, lúc yếu, nhưng để phát triển bền vững thì phải gắn với đào tạo”. Từ triết lý đó, lại nắm bắt được hướng phát triển của kỹ thuật, công nghệ hiện đại không thể thiếu lĩnh vực vật liệu và kết cấu tiến tiến, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã kiên trì thuyết phục và được nhà trưởng ủng hộ mở đào tạo chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Khoa Cơ học Kỹ thuật (Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN) vào năm 2015. Đến nay, Khoa đã bước sang năm thứ 8 đào tạo sinh viên theo chuyên ngành này. Ngoài ra, NNC cũng là chỗ dựa quan trọng để gây dựng ngành Kỹ thuật hạ tầng ở Trường ĐH Việt Nhật (2016) và Ngành Kỹ sư Xây dựng-Giao thông ở Trường ĐH Công nghệ. Từ thành công của NNC và PTN, năm 2018, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tiếp tục thành lập Bộ môn mới – Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông (Bộ môn trực thuộc trường, tương đương cấp Khoa về mặt hành chính, đến nay đã có khóa kỹ sư đầu tiên ra trường. Sinh viên các ngành này mấy năm gần đây luôn có điểm trúng tuyển đầu vào cao nhất cả nước trong lĩnh vực Kỹ thuật Xây dựng. Những kết quả này mở ra sự hợp tác mới với các Khoa, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước trong lĩnh vực Kỹ thuật Xây dựng.

“Đến nay, NNC, Phòng thí nghiệm và Bộ môn đã và đang có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các nhà PTN và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,… như Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Melbourne(Úc), Đại học Birmingham (UK), ĐH Sejong (Hàn Quốc),… và còn thu hút được các TS trẻ, các NCS từ nước ngoài như Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,… về Việt Nam trao đổi học thuật, thực tập trong NNC”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết. Như vậy, từ mô hình NNC với hoạt động chính là đào tạo nhân tài và nghiên cứu khoa học để có những công bố quốc tế, đã hình thành nên mô hình mới đó là PTN – nơi chuyển từ những nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu ứng dụng.

Năm 2017, ĐHQGHN đã có quyết định công nhận là NNC mạnh. Như vậy, từ một nhóm nghiên cứu rất sơ khai ban đầu, chỉ trong thời gian từ 2010 đến nay, bằng sự kiên trì bền bỉ, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự phấn đấu nỗ lực, quên mình, Thầy và trò trong NNC đã vững vàng tự tin vươn lên tầm quốc tế từ nội lực. Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, NNC đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có 175 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín; được cấp 1 bằng sáng chế trong sản xuất chế tạo vật liệu nanocomposite; xuất bản 2 sách chuyên khảo bằng tiếng Anh; đã có 9 NCS bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ và đang đào tạo 6 NCS. Đến nay ngành Cơ học Việt Nam đã trao 5 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo cho các nhà khoa học trẻ tài năng thì 2 học trò trong NNC là PGS. TS Hoàng Văn Tùng và TS Trần Quốc Quân đã vinh dự được nhận giải thưởng này. 1 thành viên trẻ trong nhóm được Forbes Việt Nam vinh danh đầu năm 2020. Những năm gần đây, NNC vẫn công bố đều mỗi năm 10 – 15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín, kết quả nghiên cứu được mời báo cáo tại các hội nghị quốc tế lớn. Có thể thấy với kết quả và uy tín như vậy không thua kém các nhóm nghiên cứu mạnh của quốc tế. Thương hiệu và uy tín của nhóm nghiên cứu đã vang xa và có sức thu hút trong cộng đồng khoa học quốc tế. Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức cũng giữ vai trò nòng cột tổ chức nhiều hội nghị quốc tế có uy tín thành công như ICEMA 2010, ICEMA2012, ICEMA2014, ICEMA2016, ICEMA2019, ICEMA2021 và Hội nghị quốc tế về tối ưu hóa theo thuật toán của bầy ong (3/2018), Hội nghị quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS TM 2018 (9/2018) với hàng trăm nhà khoa học hàng đầu của quốc tế tham gia, … GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng NNC cũng là nhà khoa học Việt Nam được mời làm thành viên Hội đồng biên tập của 10 tạp chí ISI (SCI, SCIE) có uy tín của quốc tế, và đại diện cho Việt Nam tham gia Ủy ban quốc tế về vật liệu chức năng FGM (2017), Hiệp hội quốc tế về composite (2021),…

Cũng từ hạt nhân NNC, với sự đòi hỏi phát triển từ nội tại, các ngành mới, Khoa mới đã được thành lập để đáp ứng nhu cầu đào tạo bổ sung nhân lực (các kỹ sư, TS) cho xã hội và cho chính NNC. Một số thành viên của NNC không chỉ sinh hoạt khoa học trong NNC mà còn chính là những thầy, cô giáo tham gia giảng dạy ở những ngành, Khoa mới vừa thành lập. Đây là mô hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao rất phù hợp, góp phần khẳng định vai trò quan trọng của NNC và cho thấy NNC chính là tế bào của hoạt động đào tạo và nghiên cứu trong trường đại học.

Nhà khoa học số 1 Việt Nam: Người thầy phải có tâm và có tầm

Trong gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố tới hơn 300 bài báo khoa học, đào tạo nhiều học trò xuất sắc.

Liên tiếp trong ba năm, từ 2019 đến 2021, giáo sư Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong tốp 100.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng thế giới và đứng đầu trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam trong danh sách này các năm 2020, 2021. Trong lĩnh vực kỹ thuật, ông được xếp vị trí thứ 96 thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.

Không có học trò kém

Chia sẻ về sự nghiệp “trồng người” trong không khí cả nước đón chào Ngày hiến chương các nhà giáo Việt Nam 20/11, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết với ông, không có học trò kém. Học trò nào cũng ẩn chứa những tiềm năng và chính niềm tin yêu, sự tận tâm và động viên khích lệ của người thầy là động lực khơi dậy, đánh thức tiềm năng sáng tạo của các học trò. Điều đó đòi hỏi người thầy phải thật sự tâm huyết với nghề, hết lòng với học trò.

Gần 40 năm gắn bó với giáo dục đại học cũng là chừng ấy năm giáo sư Nguyễn Đình Đức thực hiện sứ mệnh “trồng người” cao cả của nhà giáo. Với giáo dục đại học, điều đó lại càng đặc biệt hơn khi người thầy sẽ trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Nếu giáo viên phổ thông là những người đặt nền móng tri thức và đạo đức làm người thì giảng viên đại học lại là người đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, những người chuẩn bị bước vào thị trường lao động, trực tiếp xây dựng và kiến thiết đất nước. Vì vậy, người thầy chính là một tấm gương cho sinh viên không chỉ trong với tư cách là nhà giáo mà còn với tư cách một người đồng nghiệp lớn.

Là một người say mê nghiên cứu khoa học và hướng dẫn rất nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh nghiên cứu khoa học, sự tận tụy và tâm huyết, những bài giảng và lòng yêu nghề và khát khao cống hiến của giáo sư Nguyễn Đình Đức đã thắp sáng ngọn lửa đam mê khoa học của lớp lớp học trò. Ông luôn quan niệm người thầy chân chính phải thực sự tâm huyết, không màng danh lợi, khát khao cống hiến.

Từng tốt nghiệp tiến sỹ ở Nga từ khi còn rất trẻ, với ngành nghiên cứu về vật liệu mới composite, có nhiều cơ hội để làm việc ở nước ngoài nhưng ông vẫn quyết định trở về nước. “Nhìn từ tấm gương của các giáo sư lỗi lạc, tôi nhận thấy để thành công được, họ không chỉ có tài năng mà còn có lý tưởng cống hiến cho đất nước. Những điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến cá nhân tôi. Vì vậy, tôi mong muốn những kiến thức mà mình tích lũy sẽ đóng góp được cho đất nước, để xây dựng được đội ngũ, xây dựng được ngành của mình,” giáo sư Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

Nha khoa hoc so 1 Viet Nam: Nguoi thay phai co tam va co tam hinh anh 2
Giáo sư Nguyễn Đình Đức (thứ hai từ phải sang) và các giáo sư của Đại học Quốc gia Hà Nội. (Nguồn: Vietnam+)

Vượt qua rất nhiều khó khăn thiếu thốn, từ những ngày đầu còn chưa có phòng làm việc cho nhóm nghiên cứu, nhưng cả thầy và trò vẫn cùng nhau cố gắng nỗ lực. Dưới sự hướng dẫn của thầy, nhiều sinh viên đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, nhiều nghiên cứu sinh có kết quả nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín và không hề thua kém các nghiên cứu sinh được đào tạo bài bản hoàn toàn ở nước ngoài.

Nhiều học trò của ông đã tiếp nối con đường trở thành các nhà giáo, nhà khoa học và có chuyên môn giỏi như phó giáo sư Hoàng Văn Tùng (Đại học Kiến trúc Hà Nội), tiến sỹ Trần Quốc Quân (Đại học Phenikaa), tiến sỹ Phạm Hồng Công (Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam), tiến sỹ Vũ Thị Thùy Anh (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội)…

Hội nhập và sáng tạo

Không chỉ là người thầy tận tâm, giáo sư Nguyễn Đình Đức còn là nhà khoa học với tư tưởng hội nhập quốc tế sâu rộng. Với quan điểm để trở thành nhà giáo, nhà khoa học giỏi, người thầy bên cạnh chữ “tâm” phải có lý tưởng và có tầm nhìn, ông luôn tâm niệm các nhà khoa học Việt Nam phải vươn lên, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế. Giáo dục đại học muốn thành công phải luôn bắt nhịp, hội nhập theo các chuẩn mực và trình độ của quốc tế, cả trong đào tạo và nghiên cứu đồng thời gắn với thực tiễn, phục vụ thiết thực sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Điều đó thể hiện rõ trong hướng trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu của ông, đó là các lĩnh vực liên quan đến vật liệu và kết cấu tiên tiến như vật liệu cacrbon-cacrbon siêu bền nhiệt; vật liệu nano; vật liệu mới làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời; các vật liệu composite có tính năng cơ lý cao sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt; các vật liệu tiên tiến đáp ứng yêu cầu lưu trữ thông tin lớn của CMCN 4.0; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và machine learning trong tối ưu hóa vật liệu và kết cấu…

Kết quả của những năm tháng miệt mài nghiên cứu là ông đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín; là tác giả của hai bằng phát minh sáng chế, góp phần quan trọng hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo sư Đức cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.

Với vai trò là người phụ trách quản lý đào tạo của một trong hai đại học lớn nhất cả nước, Đại học Quốc gia Hà Nội, giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược trong phát triển đại học gắn với nhu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế với nhiều đề xuất táo bạo. Nhận thấy để các phát triển nghiên cứu khoa học một cách bền vững cần phải hình thành các tổ chức, năm 2015, ông đề xuất thành lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trực thuộc Khoa Cơ kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.).

Năm 2016, ông đề xuất mở ngành thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng ở Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội) hợp tác với đối tác chính là Đại học Tổng hợp Tokyo và hơn 10 trường đại học khác của Nhật Bản cùng tham gia đào tạo nguồn nhân lực cao cho đất nước trong lĩnh vực Civil Engineering.

Năm 2018, giáo sư Đức kiến nghị thành lập ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng-Giao thông ở Đại học Công nghệ. Năm 2021, ông cùng với Khoa Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) triển khai hợp tác với Học Viện Hàng không Matxcova, mở ngành đào tạo kỹ sư Tự động hóa và Tin học…

Những ngành học mới đã đáp ứng được nhu cầu của người học cũng như yêu cầu nhân lực của xã hội đồng thời mở rộng lĩnh vực đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, được vinh danh là nhà khoa học hàng đầu của cả nước, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho hay với ông đó là niềm vinh dự, nguồn khích lệ động viên nhưng cũng là trách nhiệm phải xứng đáng với những tôn vinh./.

Hà An (Vietnam+)

THE ELEVENTH NATIONAL CONFERENCE ON MECHANICS AND THE NINTH NATIONAL CONGRESS OF THE VIETNAM ASSOCIATION FOR MECHANICS

The National Conference on Mechanics, held every five years, is a forum for people who research on mechanics and its applications in the fields of engineering and technology to gather and exchange ideas.

The 11th National Conference on Mechanics – NCME 2022 organized by Vietnam Association of Mechanics and Institute of Mechanics (VAST) will be held at VNU University of Engineering and Technology on December 2-3, 2022. The conference is a place for recognizing achievements and exchanging new results obtained in the field of mechanics as well as domestic and international research orientations on this field. The conference aims to serve national construction and development, and to strengthen international integration. During this conference, Vietnam Association of Mechanics will simultaneously hold the Ninth National Congress.

The NCME 2022 expects to welcome about 400 presenters domestically as well as internationally from an estimation of 550 participants. All accepted submissions will be published electronically within a Conference Proceedings. Selected articles submitted may be published in a peer-reviewed Special Issue in some ISI journals.

 

Topics in pure and applied mechanics include (but are not limited to):

  • Fundamental problems of mechanics
  • Computational Mechanics
  • Nonlinear Dynamics, Chaos and Stochastic Systems
  • Dynamics and Control of Multibody Systems
  • Dynamics and Control of Structures
  • Identification of Mechanical Systems, Technical Diagnostics and Experiments
  • Solid Mechanics
  • Mechanics of Composite Materials and Structures
  • River and Sea Dynamics
  • Industrial and Environmental Fluid Mechanics
  • Mechatronics
  • Mechanics of Machinery and Robot
  • Soil and Rock Mechanics
  • Artificial Intelligence in Mechanical Engineering
  • Education and Training in Mechanics

 

Steering Committee

Nguyen Tien Khiem

Nguyen Dinh Duc

Chu Duc Trinh

 

Scientific Committee

Chair: Nguyen Tien Khiem

Deputy chairs: Nguyen Dinh Duc, Hoang Van Huan, Nguyen Xuan Hung, Nguyen Van Khang, Phan Bui Khoi, Tran Ich Thinh, Nguyen Dang To, Do Nhu Trang.

Members: Nguyen Dong Anh, Nguyen Dang Bich, Dao Huy Bich, Ngo Huy Can, Le Van Canh, Pham Duc Chinh, Nguyen Thai Chung, Nguyen Duc Cuong, Nguyen Phong Dien, Nguyen Van Diep, Bui Van Ga, Duong Ngoc Hai, Vu Cong Ham, Nguyen The Hung, Nguyen Quoc Hung, Nguyen Trung Kien, Nguyen Viet Khoa, Ngo Nhu Khoa, Tran Van Lien, Nguyen Huu Loc, Hoang Xuan Luong, Nguyen Xuan Luu, Dao Nhu Mai, Nguyen Xuan Man, Dinh Van Manh, Tran Van Nam, Nguyen An Nien, Ngo Kieu Nhi, Nguyen Van Pho, Dinh Van Phong, Khuc Van Phu, Pham Hong Phuc, Nguyen Thien Phuc, Nguyen Trong Phuoc, Vu Duy Quang, Le Quang, Tran Quoc Quan, Le Minh Quy, Ngo Van Quyet, Nguyen Chi Sang, Do Sanh, Nguyen Hoai Son, Le Luong Tai, Truong Tich Thien, Pham Manh Thang, Bui Quoc Tinh, Vu Quoc Tru, Tran Duc Trung, Nguyen Thoi Trung, Tran Minh Tu, Hoang Van Tung, Nguyen Trung Viet, La Duc Viet, Pham Chi Vinh.

 

Organizing Committee

Co-chairs: Nguyen Dinh Duc, Tran Van Lien

Deputy chairs: Le Van Canh, Nguyen Thi Viet Lien, Tran Van Nam

Members: Tran Anh Binh, Chu Thanh Binh, Luong Xuan Binh, Hoang Thai Chien, Pham Hong Cong, Nguyen Tien Dung, Phan Hai Dang, Pham Tien Dat, Nguyen Phong Dien, Pham Minh Hai, Tran Thanh Hai, Vu Cong Ham, Ha Ngoc Hien, Nguyen Quang Hoang, Hoang Van Huan, Phan Bui Khoi, Dang Bao Lam, Dao Nhu Mai, Duong Tuan Manh, Phan Dang Phong, Cao Van Phuong, Vu Ngoc Pi, Tran Quoc Quan, Nguyen Hoai Son, Nguyen Hong Thai, Dang Ngoc Thanh, Chau Dinh Thanh, Pham Manh Thang, Nguyen Dang To, Nguyen Xuan Toan, Pham Quoc Tuan, Tran Thanh Hai Tung.

 

Secretariat

Chair: Nguyen Thi Viet Liên

Members: Vu Thi Thuy Anh, Nguyen Tien Cuong, Phan Hai Dang, Tran Binh Dinh, Tran Thi Thu Ha, Nguyen Quang Hoang, Dang Bao Lam, Phan Thi Cam Ly, Dao Nhu Mai, Duong Tuan Manh, Phung Van Phuc, Nguyen Tat Thang, Nguyen Kim Thoa, Pham Quoc Tuan, Tran Ngoc Trung, Nguyen Ngoc Vinh.

 

 

IMPORTANT INFORMATION

Abstract

The abstract should be typed in Microsoft Word Unicode font, Times New Roman style and must not exceed 300 words. Titles should use 14pt bold font, center alignment. Author’s name(s) should use 11pt bold font, center alignment and be written immediately after titles. Institution, contact address and email should use 11pt, italic font, left alignment and be written immediately after author’s name(s).

 

Full text

Full text must not exceed 10 pages. Instructions for presenting full text is enclosed with this announcement.

Language               English or Vietnamese

 

Registration fee     1,500,000 VND (75 USD)

Proceedings fee     1,000,000 VND (50 USD)

Bank account:       HOI CO HOC VIETNAM

Acc Num:       1440201029694 (for VND)

1440201030947 (for USD)

Bank:               AGRIBANK, North Hanoi Branch

 

Schedule

  • Deadline for abstract submission: July 31, 2022
  • Deadline for full text submission: September 01, 2022
  • Deadline for registration payment: August 01, 2022
  • Deadline for invitation letter request: November 01, 2022

 

Contact

Soil and Rock Mechanics:

Pham Quoc Tuan: tuanpq81@gmail.com

Mechanics of Machinery:

Dang Bao Lam: lam.dangbao@hust.edu.vn

Fluid Mechanics:

Nguyen Tien Cuong: cuong.imech@gmail.com

Computational Mechanics:

Phung Van Phuc: pv.phuc86@hutech.edu.vn

Solid Mechanics:

Dao Nhu Mai: maidn@vnu.edu.vn

Dynamics and Control:

Nguyen Quang Hoang: hoang.nguyenquang@hust.edu.vn

Artificial Intelligence in Mechanical Engineering:

Phan Hai Dang: haidangphan.vn@vnu.edu.vn

Education and Training in Mechanics:

Nguyen Dang To: nguyendangto@tlu.edu.vn

 

Website

http://cohocvietnam.org.vn

https://uet.vnu.edu.vn/

Home Page

https://vjs.ac.vn/index.php/vjmech

HỘI NGHỊ CƠ HỌC TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI VÀ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC HỘI CƠ HỌC VIỆT NAM LẦN THỨ IX

Hội nghị Cơ học toàn quốc, được tổ chức thường kỳ 5 năm, là diễn đàn của đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu và ứng dụng cơ học vào các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ.

Hội nghị Cơ học toàn quốc lần thứ XI do Hội Cơ học Việt Nam và Viện Cơ học phối hợp tổ chức vào ngày 02-03 tháng 12 năm 2022 tại Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội và hai đầu cầu: Đại học Đà nẵng và Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TPHCM. Hội nghị là nơi trao đổi các thành tựu mới; các kết quả ứng dụng cơ học; các phương hướng nghiên cứu cơ học trong nước và trên thế giới nhằm mục đích phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế. Trong thời gian Hội nghị lần này, Hội Cơ học Việt Nam sẽ tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

Hội nghị dự kiến sẽ chào đón khoảng 550 đại biểu với 400 báo cáo khoa học được trình bày. Tất cả những bài báo được chấp nhận sẽ được đăng ở Kỷ yếu Hội nghị. Đặc biệt, Hội nghị lần này sẽ chọn những bài báo chất lượng cao và thông qua quá trình bình duyệt nghiêm ngặt trước khi bài báo được đăng trên một số tạp chí ISI uy tín.

 

CÁC LĨNH VỰC KHOA HỌC CỦA HỘI NGHỊ

  • Các vấn đề cơ bản của cơ học
  • Cơ học tính toán
  • Động lực học phi tuyến, chaos và ngẫu nhiên
  • Động lực học và điều khiển hệ nhiều vật
  • Động lực học và điều khiển công trình
  • Nhận dạng hệ cơ học, chẩn đoán kỹ thuật và thực nghiệm
  • Cơ học vật rắn biến dạng
  • Cơ học vật liệu và kết cấu composite
  • Động lực học sông – biển
  • Cơ học thủy khí công nghiệp và môi trường
  • Cơ học nano/micro, đa tỷ lệ
  • Cơ điện tử
  • Cơ học máy và Robot
  • Cơ học đất, đá và môi trường rời
  • Trí tuệ nhân tạo trong cơ kỹ thuật
  • Giảng dạy và bồi dưỡng cơ học

 

Ban chỉ đạo

Nguyễn Tiến Khiêm

Nguyễn Đình Đức

Chử Đức Trình

 

Ban khoa học

Trưởng ban: Nguyễn Tiến Khiêm

Các Phó Trưởng ban: Nguyễn Đình Đức, Hoàng Văn Huân, Nguyễn Xuân Hùng, Nguyễn Văn Khang, Phan Bùi Khôi, Trần Ích Thịnh, Nguyễn Đăng Tộ, Đỗ Như Tráng.

Các Ủy viên: Nguyễn Đông Anh, Đào Huy Bích, Nguyễn Đăng Bích, Lê Văn Cảnh, Ngô Huy Cẩn, Phạm Đức Chính, Nguyễn Thái Chung, Nguyễn Đức Cương, Nguyễn Phong Điền, Nguyễn Văn Điệp, Bùi Văn Ga, Dương Ngọc Hải, Vũ Công Hàm, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Quốc Hưng, Ngô Như Khoa, Nguyễn Việt Khoa, Nguyễn Trung Kiên, Trần Văn Liên, Nguyễn Hữu Lộc, Hoàng Xuân Lượng, Nguyễn Xuân Lựu, Đào Như Mai, Nguyễn Xuân Mãn, Đinh Văn Mạnh, Trần Văn Nam, Ngô Kiều Nhi, Nguyễn Ân Niên, Nguyễn Văn Phó, Đinh Văn Phong, Khúc Văn Phú, Nguyễn Thiện Phúc, Phạm Hồng Phúc, Nguyễn Trọng Phước, Lê Quang, Vũ Duy Quang, Trần Quốc Quân, Lê Minh Quý, Ngô Văn Quyết, Nguyễn Chỉ Sáng, Đỗ Sanh, Nguyễn Hoài Sơn, Lê Lương Tài, Phạm Mạnh Thắng, Trương Tích Thiện, Bùi Quốc Tính, Vũ Quốc Trụ, Nguyễn Thời Trung, Trần Đức Trung, Trần Minh Tú, Hoàng Văn Tùng, Lã Đức Việt, Nguyễn Trung Việt, Phạm Chí Vĩnh.

 

Ban tổ chức

Đồng Trưởng ban: Nguyễn Đình Đức, Trần Văn Liên

Phó Trưởng ban: Lê Văn Cảnh, Nguyễn Thị Việt Liên, Trần Văn Nam

Các Ủy viên: Chu Thanh Bình, Trần Anh Bình, Lương Xuân Bính, Thái Hoàng Chiến, Phạm Hồng Công, Nguyễn Tiến Dũng, Phan Hải Đăng, Phạm Tiến Đạt, Nguyễn Phong Điền, Phạm Minh Hải, Trần Thanh Hải, Vũ Công Hàm, Hà Ngọc Hiến, Nguyễn Quang Hoàng, Hoàng Văn Huân, Phan Bùi Khôi, Đặng Bảo Lâm, Đào Như Mai, Dương Tuấn Mạnh, Phan Đăng Phong, Cao Văn Phường, Vũ Ngọc Pi, Trần Quốc Quân, Nguyễn Hoài Sơn, Nguyễn Hồng Thái, Đặng Ngọc Thanh, Châu Đình Thành, Phạm Mạnh Thắng, Nguyễn Đăng Tộ, Nguyễn Xuân Toản, Phạm Quốc Tuấn, Trần Thanh Hải Tùng.

 

Ban thư ký

Trưởng ban: Nguyễn Thị Việt Liên

Các Ủy viên: Vũ Thị Thùy Anh, Nguyễn Tiến Cường, Phan Hải Đăng, Trần Bình Định, Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Quang Hoàng, Đặng Bảo Lâm, Phan Thị Cẩm Ly, Đào Như Mai, Dương Tuấn Mạnh, Phùng Văn Phúc, Nguyễn Tất Thắng, Nguyễn Kim Thoa, Phạm Quốc Tuấn, Trần Ngọc Trung, Nguyễn Ngọc Vinh.

 

CÁC THÔNG TIN QUAN TRỌNG

 

Báo cáo tóm tắt

Báo cáo tóm tắt không quá 300 từ. Văn bản dùng Microsoft Word font Unicode. Tên bài dùng font Times New Roman 14 đậm, căn giữa. Tên tác giả dùng font Time New Roman 11 đậm, căn giữa, viết ngay sau tên bài. Cơ quan, địa chỉ và email dùng font Time New Roman 11 nghiêng căn trái, viết ngay sau tên tác giả.

 

Báo cáo toàn văn

Báo cáo toàn văn không quá 10 trang. Hướng dẫn trình bày báo cáo toàn văn được gửi kèm theo thông báo này.

Ngôn ngữ:          Tiếng Việt hoặc Tiếng Anh

 

Hội nghị phí:      1.000.000 đ/người cho Hội viên Hội Cơ hoc Việt Nam; 1.500.000đ/người cho người chưa là Hội viên Hội Cơ hoc Việt Nam.

Phí phản biện:   500.000 đ/bài báo (không trả lại tiền cho bài báo không đủ tiêu chuẩn đăng)

Phí in kỷ yếu:     500.000 đ/bài báo (sẽ có thông báo cụ thể dựa vào số lượng đăng ký in)

Thông tin chuyển khoản: HỘI CƠ HỌC VIỆT NAM

Số TK VND: 1440201029694

Số TK USD:   1440201030947

Ngân hàng:     AGRIBANK, Chi nhánh: Bắc Hà Nội

 

Kế hoạch thời gian

  • Nhận đăng ký và báo cáo toàn văn: đến 31/07/2022
  • Phản biện bài báo: từ 01/09/2022
  • Nộp hội nghị phí: từ 01/08/2022
  • Gửi giấy mời tham dự hội nghị từ 01/11/2022

 

Địa chỉ liên hệ

Tiểu ban Cơ học Đất, Đá và Môi trường rời:

Phạm Quốc Tuấn: tuanpq81@gmail.com

Tiểu ban Cơ học Máy:

Đặng Bảo Lâm: lam.dangbao@hust.edu.vn

Tiểu ban Cơ học Thủy khí:

Nguyễn Tiến Cường: cuong.imech@gmail.com

Tiểu ban Cơ học Tính toán:

Phùng Văn Phúc: pv.phuc86@hutech.edu.vn

Tiểu ban Cơ học Vật rắn biến dạng:

Đào Như Mai: maidn@vnu.edu.vn

Tiểu ban Động lực và Điều khiển:

Nguyễn Quang Hoàng: hoang.nguyenquang@hust.edu.vn

Tiểu ban Trí tuệ nhân tạo trong cơ kỹ thuật:

Phan Hải Đăng: haidangphan.vn@vnu.edu.vn

Tiểu ban Các vấn đề Giảng dạy và Bồi dưỡng Cơ học:

Nguyễn Đăng Tộ: nguyendangto@tlu.edu.vn

 

Website

http://cohocvietnam.org.vn

https://uet.vnu.edu.vn/

Home Page

https://vjs.ac.vn/index.php/vjmech